Monday, May 22, 2017

Truyện ngắn về người lính

MỚI
Bây giờ con mới hiểu

Khoanh tròn trong chiếc kén thiếu nữ của ngày cuối cùng cùng tôi nhìn theo mẹ. mẹ còn trẻ quá.
 
Tóc mẹ chưa bạc sợi nào. Lưng mẹ thẳng và dáng đi nhanh nhẹn. Mẹ trân trọng bưng lễ vật để lên bàn thờ bố. Mắt mẹ dịu dàng vô biên cương. Và một nét cười bừng lên trong ánh mắt. -" Con gái chúng mình đi lấy chồng rồi đấy". Rồi đột ngột nước mắt lại dâng đầy. Mẹ quay nhìn xuống ngực mình, rồi mẹ nhìn trải khắp căn phòng. Ngày mai, khi tôi chui ra khỏi kén, tôi thành ngài sinh con đẻ trứng, mẹ sẽ chỉ còn một mình với căn phòng trống vắng. Mẹ còn quá trẻ, nỗi cô quạnh sẽ trùm lên mẹ trong quãng đời còn lại. Ai sẽ làm thay đổi được điều đó?

 
Sẽ chẳng thay đổi được số phận đâu. Chiến tranh qua đi và để lại muôn vàn những goá phụ như mẹ tôi. Nhưng có lẽ một đứa con, một giọt máu yêu thương để lại giứa hai điểm ngắm sẽ làm dịu bớt phần nào. và chính tôi, một con bé bảy tuổi ngày ấy đã không mang lại cho mẹ cơ may cuối cùng.

Bố nhập ngũ tôi còn bé lắm. Nỗi nhớ bố chỉ cất thành tiếng khóc chứ chưa biết nói thành lời. Người vợ trẻ nhớ chồng không san sẻ cùng ai cũng hoà thành tiếng khóc.
    
Hai mẹ con sống trong một căn hộ tập thể. Ban ngày mẹ đi làm, tối về hai mẹ con thủ thỉ nói chuyện về bố. Tôi lớn hơn một chút, mẹ thường mang anbum ra chỉ cho tôi ảnh bố. Như vậy bố như chỉ vừa sang hàng xóm và sắp về đó thôi. Sự thực thì hai mẹ con mang nỗi niềm nhớ thương bố khắc khoải.
   
 
Buổi trưa hôm ấy, bố về nhà đột ngột. Hai mẹ con đang ngồi ăn cơm. Mẹ sững sờ buông rơi chiếc bát. Con trân trân nhìn bố một lúc. Thấy đúng bố rồi, oà reo lên nhưng vẫn bẽn lẽn nấp vào vai mẹ. Bố bế bồng con lên, quay cuồng:
     -Chao ôi lớn thế này rồi kia à? Mà bảy tuổi rồi phải không? Bố vẫn đếm mà.
   
Rồi bố ôm lấy mẹ. Bố hít mãi vào tóc mẹ, thì thầm "Hai giờ thôi em ạ". tàu đỗ ngoài ga hai tiếng nữa. Mẹ rối  rít cứ chạy xung quanh bố. Mẹ bế lấy con lại đưa cho bố. Ngoài cửa có mấy người đi qua thì thào:
 
   - Hình như chú Quân nhà cô Nga về thì phải?
    Mẹ như sực tỉnh. Chạy ra đóng chặt cửa.
   
 
Tôi ngồi trong lòng bố sung sướng. Nỗi sung sướng của con muốn trào ra ngoài. Con chạy ra bảo cho cái Hoa, thằng Tú biết rằng bố đã về. Tôi tụt xuống khỏi lòng bố. Tôi chạy ra mở cửa. Mẹ không bằng lòng kéo tay tôi lên. Mẹ bế tôi ôm chặt vào lòng ngồi xuống bên cạnh bố. Mẹ áp mặt vào lưng bố. Bố ôm mẹ vào ngực. Mẹ thổn thức:
    -Đừng khóc em ạ!
   
 
Tôi ngơ ngác nhìn mẹ. Sao mẹ phải khóc kia chứ. Vì sao lại đóng cửa thế kia. Mở to ra cho các bác hàng xóm vào chơi chứ. Các bác ấy cười nói vui lắm. mẹ sẽ hết khóc ngay. Con sẽ ngồi vào giữa lòng bố thế này, cho cái Hương hết hãnh diện nhé. Nó làm như chỉ một mình bố nó về hôm nọ.
    - Sao mẹ lại khóc. Con chạy ra ,ở cửa gọi các bác sang nhà chơi cho mẹ vui nhé.
   
 
Xong tôi tụt ngay khỏi lòng mẹ chạy ra mở cửa. Mẹ chạy theo định nắm tay tôi lại - Đừng con! Rồi như mẹ chợt nghĩ ra điều gì đó.
   -À, mẹ cho con năm hào này. Con sang rủ cái Hoa ra đầu phố mua kem mà ăn.
   - Vâng ạ!

Tôi cầm tiền vung vẩy chạy. Cái kem trong phút chốc làm tôi quên mất bố. Tôi chạy ù sang rủ các Hoa. Hai đứa vừa ra đến cổng gặp ngay bà bán kem rong, tôi mua cho nó một chiếc, tôi một chiếc. Tôi đưa kem lên miệng rồi chợt nghĩ ra.

- Bố tớ về rồi đấy!

- Bố cậu về à? Sao không gọi cho tớ biết với.

- Vừa về xong. Sang nhà tớ đi

- Để tớ về bảo cho mẹ tớ biết đã

Thế rồi mồm nó hét toáng lên từ cổng

- Mẹ ơi, bố bạn Loan về rồi. Chú Quân đi bộ đội về rồi.

Tôi cũng chạy ào về nhà. Tôi muốn chạy vào lòng bố ngồi chễm chệ trước khi mọi người đến. Tôi muốn mọi người biết rằng, tôi có bố đây này, bố tôi về đây này. Bao nhiêu lần tôi thèm cái cảnh cái Hương ngồi giữa lòng bố nó.

Cánh cửa đóng kín sừng sững trước mắt tôi. tôi đẩy cửa, cửa chốt từ bên trong. Tôi đẩy cửa sổ,cửa sổ cũng cài kín. Tôi căng mắt nhìn qua lỗ khoá. Trong nhà tối om tôi không sao nhìn thấy gì. Tôi đứng im băn khoăn, hay là bố mẹ đi vắng. Tôi pnhìn chiếc khoá vẫn lủng lẳng một bên. Nếu bố mẹ đi đâu sẽ phải khoá cửa chứ. Tôi áp tai vào cửa nghe ngóng. Tôi chợt nghe thấy tiếng mẹ nho nhỏ. Thế là tôi biết bố mẹ vẫn ở trong nhà. một nỗi dỗi hờn con trẻ ập vào lòng tôi. Tôi bị bỏ rơi. Tôi đập vào cánh cửa.

- Mẹ ơi, mở cửa cho con vào với.

Im lặng.

Tôi đập mạnh hơn

- Mẹ ơi, mở cửa cho con

Im lặng.

Tôi chợt gào lên và chợt nhớ ra có cả bố ở trong ấy nữa.

- Bố mẹ ơi, mở cửa cho con vào nhà với.

Cái Hoa đã đứng bên cạnh tôi lúc nào. Nó ngơ ngác nhìn tôi.

- Sao bố mẹ cậu lại đóng chặt cửa không cho cậu vào.

Loáng thoáng vài ba người hàng xóm đi qua trước cửa nhà xem có chuyện gì. Tôi uất ức trào nước mắt. Tôi khóc ầm lên.

- Bố mẹ ơi cho con vào với.

Bố chạy xô ra trước. Bố ôm lấy tôi, úp mặt vào bụng tôi cù. Tôi đẩy bố ra. Mẹ vẫn đang vấn tóc cho gọn, rồi chạy ra mở toang cửa. Mẹ nhìn thấy cái Hoa đang ngơ ngác nhìn mẹ và mấy người hàng xóm nhìn mẹ cười. Mẹ cáu bất ngờ. Mẹ xông vào tôi phát lấy phát để, rồi oà khóc. Thế là hai mẹ con tôi khóc. Bố bật cười gỡ mẹ ra:

- Bình tĩnh lại nào, con có lỗi gì đâu.

Mẹ ôm mặt khóc nức nở. Tôi bỗng sợ hãi. Tôi không khóc nữa. Tôi ngước mắt nhìn bố. Mắt bố sạm đen, sắt lại như đang dồn nén một điều gì đó. Bố bỗng nhìn xa, vút ra khỏi cửa. Tôi khẽ kéo áo bố. Bố như bừng tỉnh. Bố cúi xuống cười với tôi.

- Con ngoan của bố, con có nhớ bố không?

- Con yêu bố.
Mẹ vẫn khóc. Bố quàng tay ôm mẹ vào ngực. Bố ôm gọn cả hai mẹ và tôi:

- Đừng khóc nữa nào. Em yêu của anh. Sắp đến giờ anh phải đi rồi. Đừng làm cho con sợ.

- Em mong anh từng ngày. Em muốn có thêm một thằng cu…bom đạn nhỡ có mệnh hệ nào. Con bé này lớn sẽ đi lấy chồng…Còn có một mình em…

Bố cười rất tươi, bố thì thầm vào tai mẹ:

- Anh sẽ quay về khi em còn rất trẻ. Sẽ không lâu nữa đâu.

- Vâng lần trước anh cũng bảo em thế. Vậy mà đã năm năm rồi. Năm năm nữa em sẽ ba hai.

Bố lại cười:

- “Gái ba mươi tuổi đang xoan”

- Anh - mẹ dụi đầu vào ngực bố cười.

- Nào chúng ta cùng vui lên chứ.

Bố vòng tay kéo đầu con, đầu mẹ vào bố, ba cái đầu đập nhẹ vào nhau. Cả nhà phá lên cười. Như chờ có tiếng cười ấy hàng xóm bắt đầu kéo nhau vào. Họ đã ngấp nghé cả ở ngoài. Phút chốc cả nhà đầy ắp tiếng cười nói vui vẻ. Mỗi người góp một câu. Mắt mẹ long lanh vui sướng.

Hai tiếng đồng hồ trôi như một giấc mơ. Mẹ thảng thốt không biết xếp thứ gì vào ba lô cho bố. Bố bế tôi và hàng xóm đưa tiễn, cả một đoàn người dài. Mẹ con tôi đi với bố ra tận bến tàu. Bố cứ liếc nhìn mẹ như định nói điều gì, mẹ lại đưa mắt nhìn tôi, nên bố chỉ cười. Lúc bố lên tàu mẹ lại oà khóc. Tôi an ủi mẹ:

- Mẹ khóc làm gì, bố không chết đâu.

- Em nghe thấy không? Anh không chết được đâu. Lời nói con trẻ như lời tiên tri em ạ. Chờ anh nhé.

Rồi bố giơ ngón tay cái sát mặt mẹ:

- Một thằng con trai!

Chiến tranh không có ngoại lệ. Bố đã ra đi vĩnh viễn. Thế là đã ba lần năm năm bố không về nhà và đấy cũng chính là thời gian để cho tôi đã lớn khôn.
Sẽ trọn mười lần, hai mươi lần năm năm nữa, bố mãi mãi không bao giờ trở về để lại mẹ suốt đời với một niềm khao khát thiếu phụ dở dang.

























ANH BỘ ĐỘI VÀ LŨ TRẺ NHỎ
Hải Hồ

  Cái Mỹ có một anh bộ đội thật là đẹp. Đấy là một anh bộ đội bằng đất mẹ mới mua cho Mỹ phiên chợ hôm qua. Anh bộ đội mới về nhà cái Mỹ được một lúc, phải, chỉ một lúc thôi mà cái thế giới trẻ con khắp cõi “xóm Mít” đều bàn tán, nắc nỏm, ao ước xôn xao giống như câu chuyện của những người lớn khi có một tin thời sự nóng hổi đặc biệt, như tin tên lửa Liên Xô bay sau lưng mặt trăng chẳng hạn. Thật đúng là như thế!

  Bọn con gái thì cho rằng anh bộ đội rất hiền và rất xinh, bởi lẽ anh chỉ bằng củ khoai dong, hai chấm mắt đen láy, lại có cả má hồng, cái miệng  nhỏ lúc nào cũng mỉm cười với chúng nó. Bộ quần áo thì xanh ngăn ngắt như thể con cánh cam. Mà mũ cũng có huy hiệu sao vàng hẳn hoi nữa kia. Ôi, nom đến là xinh!

  Ừ, bọn con trai thì cho là anh bộ đội rất oách bởi lẽ rõ ràng anh lúc nào cũng mang một khẩu súng trước ngực. Mà súng tiểu liên hẳn hoi nhá. Sau lưng ụ lên cái ba lô, chắc hẳn nhiều thứ nặng lắm. Hai con mắt cứ nhìn thẳng vào chúng nó. Còn đôi chân thì bao giờ cũng đứng rất nghiêm như thể sắp duyệt binh, giả dụ ai hô: “Một. Hai” chắc anh ta có thể đi đều bước ngay tắp lự. Oách thế kia chứ!

  Lũ trẻ con xúm lại; đứa nào cũng muốn cầm xem, sờ vào cái áo cánh cam, cái mũ có sao vàng, cái sũng đen trũi và sờ cả vào khuôn mặt nho nhỏ hồng hồng của anh ta nữa. Thật là một anh chàng dễ dãi, đứa nào cầm đến anh ta cũng mỉm cười tươi tỉnh; một nụ cười lành như đất! Nhưng cái Mỹ thì thật là khắt khe, nó chỉ cho mỗi đứa cầm xem một tí vừa đủ để nó khoe xong một câu : “Của tao đấy! Đẹp không?” Chỉ một loáng thế thôi, rồi nó đòi anh bộ đội của nó lại ngay như sợ anh ấy cười với bạn nó lâu quá.

  Việc này làm cho thằng cu Mài, bạn cách rào của cái Mỹ, thèm vô kể. Rõ ràng nó mới chỉ kịp sờ được vào cái mũ có sao vàng của anh ta thôi, thế mà cái Mỹ đã vội đòi phắt ngay lại. Ôi! nom cái Mỹ nó cầm nhè nhẹ anh bộ đội, cái Mỹ khẽ khoanh tay vào ngực như ẵm em bé, cái Mỹ giả vờ ru như ru em  ngủ, thằng cu Mài thấy thích biết mấy. “Mình cũng phải có một anh bộ đội mới được”. Cu Mài nghĩ trong bụng thế và rồi nó ngán ngay cái xe bốn bánh không thiết chơi nữa. Gọi là xe nhưng thực ra nó chỉ vốn là hai cái lõi chỉ luồn kéo vào một cái khung bằng dây đồng, phía trên có đóng một miếng gỗ  mỏng. Bố cu Mài làm cho nó từ dạo phục viên. Cu Mài vẫn kéo xe bằng một sợi dây gai rõ dài và thường chiếc xe vẫn chở đủ mọi thứ. Chuyến nào cũng đầy ú hụ những hàng hoá: gạo và ngô thì bằng những nắm đất bột và sỏi con, vải vóc đẹp là  những mảnh lá cuộn tròn, còn như củ khoai luộc thì chính là một chú lợn béo quay chở gọn một chuyến xe khá nặng.

  Nhưng bây giờ thì chẳng ai thích gì bằng anh bộ đội nữa rồi. Đến trưa nó nói với bố:
  - Con không thích cái xe nữa bố ạ!

  Người bố nhìn vào đôi mắt tròn giống mẹ của nó:

 - Sao thế vậy?

  - Con thích cái anh bộ đội.

  Người mẹ bật cười với cả bố lẫn con:

  - Thì bố mày chẳng là bộ đội mãi còn gì?

Cu Mài chỉ sang bên phía rào:

 - Không! Bộ đội cầm súng như của cái Mỹ kia!

  Và nhất định cu Mài kéo bằng được bố sang gặp anh ta. Người bố ngắm nhìn và cũng khen: “Thật là khéo!” Còn anh bộ đội thì cười với cả hai bố con. Một nụ cười dễ dãi và thân mật quá chừng. Có điều là anh ta vẫn đứng nghiêm và ôm chặt khẩu súng trước ngực như không hề bao giờ quên nhiệm vụ
Vốn khéo tay lại chiều con, sau khi ngắm nghía một lúc rõ lâu, người bố quyết định làm cho cu Mài một anh bộ đội bằng gỗ. Công việc bắt đầu ngay từ hôm ấy. Cứ sau mỗi buổi đi làm đồng về, bố con lại lúi húi đục đẽo ở mé thềm. Phải mất trọn một tuần anh bộ đội mới hình thành. Một anh bộ đội khá rắn chắc. Chỉ có việc trang điểm cho anh ta tí chút nữa là hoàn thành. Cu Mài  ngồi xem bố tô điểm đôi mắt nó ánh lên  niềm chờ đợi sung sướng. Cũng thật là giản dị, chỉ một nước phẩm xanh là anh ta có bộ quần áo mới. Khẩu súng cũng đen nháy màu mặc nho. Lại đủ cả chấm quân hiệu nền đỏ sao vàng nữa kia. “ Không thua gì anh bộ đội của cái Mỹ cả”. Cu Mài nghĩ bụng thế.  Nhưng sao bố lại chấm xanh đỏ vào ngực anh ta thế nhỉ? Cu Mài vội hỏi:

  - Cái gì thế hử bố?
 
 
  - Huy hiệu Điện Biên mà.

  Cu Mài vội nhìn vào ngực bố. Nó hỏi luôn:

  - Cũng giống như bố à?

  Người bố gật gù:

  - Ừ! giống chứ!

  - À! thế anh ấy cũng biết đánh Tây!

  Nói xong, cu Mài vòng tay ngồi im, mắt không rời anh bộ đội trong tay bố. Chỉ một lát bố con lại hỏi nhau:

  - Kìa? Sao bố không vẽ mà hồng?

  - Đánh Tây thì không cần má hồng.

  - Giống má bố à?

  - Ừ, đúng thế.

  Cu Mài nhìn bố giây phút rồi bỗng nhiên nó bảo bố:

  - Con cũng không cần má  hồng.

  Người bố lắc đầu:

  - Má con vẫn hồng đấy thôi!

  Cu Mài thốt sờ tay lên má, nó không nhận:

  - Đâu?

  Người bố cười ngất:

  - Hồng đấy! Cái má giống mẹ mày như đúc.

  - Ứ! Mẹ bảo con giống bố kia mà.

  Bố cười rộ lên, to hơn, vui sướng hơn. Bố thơm mạnh vào chòm tóc cu Mài và giúi anh bộ đội vào lòng nó:

  - Xong rồi đấy! Giữ lấy con!

  Thế là việc cu Mài có anh bộ đội đeo huy hiệu Điện Biên lại như một thời sự  mới mẻ đến với lũ trẻ “xóm Mít”. Hai anh bộ đội bé bỏng được gặp gỡ làm quen ngay. Họ cùng cười với nhau mãi. Hẳn đúng là một đôi tri kỷ xa nhau lâu ngày nay mới gặp lại. Anh nào cũng nắm chắc tay súng trước ngực như dặn dò nhau đừng có bao giờ xa rời quân ngũ.

  Còn lũ trẻ thì tha hồ mà cãi nhau thật kịch liệt về việc anh nào đẹp hơn và oách hơn anh nào. Kể ra hai anh bộ đội này khó mà so sánh ai hơn ai kém kia đấy.

  Một anh thì rắn chắc như gỗ, nom mạnh mẽ rắn rỏi như vừa mới từ  trận chiến đấu oanh liệt xa xôi trở về. Nét mặt, khuôn người còn hằn rõ nét khắc khổ gian truân. Nom có vẻ tự hào ra dáng. Chắc hẳn anh ta không hề biết sợ một kẻ thù nào cả.

  Một anh son trẻ tươi vui, có nụ cười lành như đất. Dáng dấp khá là chững chạc, với khẩu tiểu liên cầm ngang tầm ngực dường như sẵn sàng đón mọi thử thách mà anh ta sẽ không cần đắn đo do dự một chút xíu nào hết.

  Bởi thế câu chuyện tranh cãi của lũ trẻ cứ om tỏi lên mà cũng khó lòng ngã ngũ. Vả lại chúng không thích kết luận. Thôi cứ là cầm xem mỗi đứa một tí cho thích là được!
Lũ trẻ xem hết một lượt rồi bèn để cả hai anh đứng ở bậc cửa. Thật đúng là bằng nhau, chẳng anh nào cao hơn anh nào nổi một ly nhé. Một đứa thích chí hát bài “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh…” Cả bọn ùa hát theo, cả vỗ tay nữa. Tiếng hát lanh lảnh cả khu vườn “xóm Mít”. Hai anh bộ đội mỉm cười nghe bài hát quen thuộc, họ đứng rất thẳng bên nhau có vẻ hài lòng lắm.

  Hát xong, một đứa lớn nhất bọn, lớn hơn một cái đầu, bảo cả bọn:

  - Này! Chúng mình tập trận đi!

  - Có mang bộ đội đi không?- Cu Mài hỏi thằng bạn thế.

  - Có chứ! Bộ đội mà lại không tập trận à?

  - Được! Cu Mài gật đầu tán thành ngay và nó vội khoe với lũ trẻ:
 

  - Anh này cũng đánh Tây ở Điện Biên ròi đấy nhớ!

  - Dô…ối! - một đứa con gái giảu mồm ra vậy.

  Cu Mài trợn mắt cãi:

  - Bố tao bảo thế mà lị!

  Thế thì chúng mình cử anh ấy là chỉ huy - thằng lớn nhất bọn nói thế và nó tuyên bố ra vẻ dứt khoát:
 

  - Đứa nào bằng lòng thì đi lấy súng mau lên.

  Lũ trẻ ùa vào trong bếp và ùa cả ra dọc hàng rào. Chỉ thoáng  một lát chúng đã trở đứng nối đuôi nhau ở sân. Đứa nào cũng có một thanh củi, một cái que hoặc là vác ở vai, hoặc là buộc dây quàng sau lưng, hoặc giắt ngang sườn như thể một thanh kiếm báu của người hiệp sĩ.

  Thằng lớn hô lũ trẻ tập hợp. Nó cũng ra lệnh điểm số một hai, ba…cho đến đứa chót, giống hệt như các anh bộ đội sắp ra thao trường.

  - Nghiêm!

  Nó hô xong liền quay lại bước tới trước thềm chào hai anh bộ đội đang đứng song song ở bậc cửa và báo cáo luôn:

  - Quân ta đã tập hợp xong! Đề nghị đồng chí bên phải (Nó giơ tay chỉ anh bộ đội của cái Mỹ) ở nhà canh gác doanh trại không cho quân địch đánh chiếm.

  Một thằng bé đứng giữa hàng nói xen vào:

  - Ê! Cậu phải nói như trong phim ấy kia.
 

  Rồi nó bước ra, ưỡn ngực nói luôn:
 
 
 
  - Phải canh gác doanh trại, bảo vệ Tổ quốc thân yêu của chúng ta.

  Khi nó quay về hàng ngũ thì thằng bạn đứng cạnh khe huých nó khen:

  - Cậu nói thế mới oai.

  Cu lớn vẫn tiếp tục báo cáo, nó chỉ vào anh bộ đội của cu Mài và nói:

  - Còn đồng chí này, yêu cầu chỉ huy chúng tôi ra mặt trận tiêu diệt quân thù dã man…

  Cả hai anh bộ dội cùng vui lòng nhận  nhiệm vụ với nụ cười dễ dãi và họ phải chia tay nhau ngay lập tức. Một anh được để lên chiếc xe bốn bánh do chính tay cu Mài kéo đi đầu. Cả bọn khom khom người tiến theo sau, toán quân hướng về góc vườn. Cũng giống như mọi hôm, mặt trận được diễn ra ác liệt tại đấy.

  Còn anh bộ đội giữ nguyên nhiệm vụ canh gác thì vẫn đừng nguyên trên bậc cửa. Anh ta đứng thẳng mà không hề biết mỏi tí nào. Xung quanh vắng vẻ, chỉ còn mỗi cái Mỹ và cái Lúa ngồi lại ở thềm. Bọn con trai không chịu cho chúng ra mặt trận. Hai đứa vào nhà lấy khoai luộc chia cho nhau ăn, chúng chia cho cả anh bộ đội nữa. Nhưng anh ta nhất định không chịu ăn rồi, lúc canh gác ai lại ăn uống linh tinh thế được. Tiếng reo, tiếng súng “Pằng pằng, đoành đoành” từ một góc vườn dội vào lanh lảnh.

  Một con chim chích choè đậu trên ngọn đọt cau nhún đuôi hót “ chiu chót”. Nắng non trưa vàng roi rói. Nắng bò dần đến ngưỡng cửa, nhưng có hề gì, anh bộ đội vẫn đứng đinh ninh không lộ vẻ gì là ngại ngùng nắng gió cả. Cái Mỹ bỗng nhiên rủ bạn:

  - Chúng mình chơi ru em đi.

  Cái Lúa đồng ý ngay:

  - Ừ! Không chơi đánh nhau nữa! Ru em thích hơn.

  - Thế chúng mình ra bài “Hoà bình chim trắng…” nhớ

  Thế là cái Mỹ bế anh bộ đội, còn cái Lúa bế củ khoai; hai đứa cùng ngồi võng đưa bổng tít và chúng nó ra cho em ngủ, tiếng ru thánh thót:

      Hoà binh chim trắng a trời xanh
      Có anh bộ đội giữ canh hoà bình

  Con chim chích choè trên ngọn cau cũng hót véo von như hoạ theo lời ru của hai đứa gái nhỏ.

  Lúc này góc vườn đã im tiếng hò reo. Súng đã lặng. Chắc là quân địch đã bị tiêu diệt vì bọn trẻ đã quay ra bắt chuồn chuồn kim và nhưng con bướm nhỏ cánh vàng kéo đến xập xèo trên vạt rau khoai lác đác trổ hoa tim tím.

  Riêng anh bộ đội vẫn đứng nguyên trên xe gỗ để dưới gốc mít. Anh ta đứng rất thẳng, không hề chịu buông súng, mắt dõi nhìn phía trước. Hình như anh ta lo cảnh giác quân địch, sợ chúng trở lại đánh úp lũ trẻ đang nhởn nhơ giữa vườn đầy bướm. Đã là bộ đội thì không được một chút nào lơ là nhiệm vụ cơ mà. Bởi vậy anh ta vẫn đứng nguyên ở vị trí, đứng rất vững không hề thay đổi.

  Chắc hẳn lúc này anh cũng đang nóng lòng nghĩ tới người bạn chiến đấu lúc chia tay. Ừ! Anh bạn ấy có làm nhiệm vụ như mình không nhỉ?…

  Làm tròn chứ? Mãi tới lúc tan đồng, người mẹ trở về thấy cái Mỹ và cái Lúa đã ngủ say tít. Hai đứa trẻ gái thở đều đều, má chúng hồng hồng mìn mịn như da những quả đào chín.

  Chỉ có anh bộ đội thì vẫn không chịu ngủ. Anh ta đứng gọn trong lòng hai đứa trẻ, tay ôm khẩu súng trước ngực, mắt nhìn thẳng về phía trước. Anh ta mỉm cười với bà mẹ. Cõ lẽ anh ta rất hài lòng về công việc của mình, cái việc thức canh cho em gái ngủ, giấc ngủ êm ả dịu ngọt trên chiếc võng nhỏ khe khẽ đu đưa./.



























Sau khúc hát ru

       Mạnh từ chiến trường trở về sau tám năm xa Hà Nội. Anh tìm đến Hưng, người bạn học cùng với anh trong những ngày ở đại học. Hai người xa nhau lâu đến thế mà khi cửa vừa mở ra Hưng đã nhảy phắt từ trên giường ra tới cửa, hét lên "Mạnh!", rồi ôm chầm lấy anh.

   Tám năm ở chiến trường, Mạnh  luôn nghĩ đến giây phút này sau mỗi lần kỷ niệm của hai đứa dào lên trong ký ức. Thế mà bây giờ Mạnh vẫn bị xúc động, đôi mắt màu nâu của anh bối dối trên gương mặt tái xanh vì sột rét:

   - Cậu phải ở với tớ cho đến giờ phép cuói cùng, hiểu chưa? - Vừa nói, Hưng vừa túm ba-lô của Mạnh vứt xuống giường, rồi chưa tin hẳn là Mạnh đang đứng trước mặt mình, Hưng lại ôm quàng lấy Mạnh một lần nữa làm cho khuôn mặt tái xanh của Mạnh phút giây ửng đỏ lên..

   Từ chiến trường về, Mạnh đã mất gần mười ngày phép để chuyển thư từ, quà cáp đến tận một số nhà bạn bè của anh mà do công việc họ chưa về thăm nhà được. Còn lại hai ngày anh nghỉ phải để dành cho Hưng- người bạn anh quý nhất trong những ngày học với nhau ở trường. lẽ nữa là bố Hưng, người công nhân già của một  nhà máy in trong quân đội đã thực sự coi anh  như con sau lần gia đình anh bị bom ở quê.

   - Chỉ sợ cậu không kham nổi tớ trong hai ngày thôi.

   Nghe cái từ quen thuộc rất riêng của bạn, Hưng reo lên thích thú:

   - Kham nổi, mấy cũng kham nổi... Ồ! Mà tại sao chỉ có hai ngày? Hưng sựng lại nhìn Mạnh.

   - Là vì...

   Mạnh lúng túng chưa biết nói thế nào thì Hưng đã nói ào đi:

   - Đừng có mà lôi thôi, ông tướng! Chốc nữa bố về tha hồ mà "là vì" với ông cụ.

   Trong phút gặp lại như thế này, " cánh đàn ông" như anh thường không hay nói nhiều. Và nếu có một cử chỉ nào đấy để biểu lộ tình cảm của mình thì lại quá vụng về. Vì thế mặc dầu Hưng cứ nao người lên mà cuối cùng anh chỉ ấn vào tay Mạnh nào chậu thau, nào xà phòng, khăn tắm...và đẩy cậu ta vào buồng tắm phía cuối sân.

   Trên nhà, Hưng cứ đi lại quanh quất cố nghĩ cách xoay thêm một cái vé văn công để tối nay Mạnh cùng xem. Cuối cùng cái ý nghĩ cần thiết cũng loé vụt ra, anh gọi với vào buồng tắm, bảo Mạnh: "Tắm xong ở nhà không có đi đâu nhé, ông tướng!" . Rồi anh túm lấy xe đạp dắt ra đường, nhảy phóc lên phóng vút đi.

   - Những năm ở chiến trường cậu không được xem văn công lần nào à? Hưng hỏi.

   - Không.

   - Thảo nào, từ tối qua đến giờ cậu như người mất hồn ấy! Phải công nhận hay tuyệt!
   - Cái gì hay tuyệt?

   - Cái mục " Đừng tặng hoa riêng em" của cô bộ đội lái xe với cánh lính trẻ ấy!

   - Ờ...

   - À, mà tại sao khi cô ta hiện ra sân khấu cậu lại nắm chặt tay tớ thế? - Và không thèm nghe Mạnh trả lời. Hưng nói say sưa - Cô gái hát tuyệt diệu, cứ  như hút lấy mọi người. Mạnh này, cậu có nghĩ thế không?

   Mãi lâu không nghe bạn nói tiếp, mạnh quay lại. Bao năm rồi đôi mắt nó vẫn cứ mơ mộng như thế! Trước đây mỗi lần thế Mạnh chỉ lặng người đi như muốn hiểu thấu cái khoảng tầm mà sức nhìn của đôi mắt ấy gợi mở. Gì đây anh cũng đã hiểu nhưng vẫn hỏi:

   - Nghĩ như thế là thế nào?

   - Là tất cả phông màn, sân khấu dường như không đủ sức chứa nổi tiếng hát ấy.

Mạnh cười vang. "Sự cực đoan của trí tưởng tượng" -biệt hiệu anh tặng cho bạn không ngờ Hưng lại giữ nó lâu đến thế.

   - Cậu biết không, cái lèn đá mà cô gái hát trong bài hát hiện ra với tớ lung linh và sinh động hơn cái phông người ta dựg lên đấy nhằm để gợi.

   - Ở Trường Sơn cũng có một cô gái hát được như thế.

   - Ai?

   - Một cô văn công.

   - Tất nhiên rồi nhưng tên cô ta?

   - Cô ta có rất nhiều tên. Toàn do lính đặt.

   - Nhưng chắc chắn không thể hơn được - Hưng nói quả quyết.

   Mạnh mỉm cười rồi như muốn nói với Hưng một điều gì đấy. Nhưng chưa kịp nói thì Hưng đã hất hàm, bảo:

   - Cái vé của cậu tối qua chính là cô ấy cho đấy!

   - Sao?- Mạnh nhỏm dậy, quay phắt sang Hưng, hỏi:

   - Cậu làm gì như đỉa phải vôi thế?

   Rồi Hưng cười xoà và nghĩ rằng mấy năm vào lửa ra lửa thế mà tính nhát gái của Mạnh vẫn chưa dạn ra.

   - Ồ...Mình muốn hỏi sao lại vẫn là cô ta?

   - Cô ta là bạn tớ.Sáng qua cô ấy đã đưa vé mời tớ. Đùng một cái, cậu về. Thế là lúc cậu tắm, tớ phải đến cô ấy. Tưởng là không được vì là sắp tới giờ biểu diễn không thể xoay kịp. Tớ nói là tớ có một thằng bạn thân ở chiến trường mới về rất yêu nghệ thuật. Không hiểu vì cậu là người ở chiến trường ra hay vì cậu là người yêu nghệ thuật mà nghe thế cô gái liềnđến nằn nì với một anh trong đoàn. Chẳng biết cô ta nói những gì mà anh ta đồng ý đổi chiếc vé độc thân của tớ trao hai cái vé liền ghế cho cô ta.

   - Cô ta... là bạn cậu từ bao giờ thế?

   - Những năm sơ tán cơ quan tớ ở gần đoàn văn công ấy.

   - Ra thế!

   - Cô bạn sắp đến mà điện lại mất. Thế có bực mình không chứ!

   Hưng lại bật công tắc một lần nữa. Vẫn vô hiệu.

   Mạnh bật khỏi giường  như lò xo. Những cơn sốt ban chiều làm anh kiệt sức. Chân tay rời nhão ra, đau  nhừ. Anh nằm vật xuống.
Có tiếng gõ cửa. Hưng chạy ra. Mạnh vội kéo tấm chăn chùm kín đầu.

   - Cậu ấy đã cắt sốt nhưng chưa dậy được.

   - Có thuốc cho anh ấy chưa?

   Giọng nói nghe thoảng như thường nghe ở các bệnh viện. Rồi Mạnh nghe bước chân đến gần anh. Anh giữ chặt đầu mép chăn bít láy đầu. Mồ hôi vã mèm ra trán nhưng cũng không sao ngăn được cậu Hưng đã kéo tấm chăn xuống, nói với cô gái:

   - Bạn nối khố mình đấy!

   Cô gái nhìn Mạnh rất nhanh. Nhưng cũng đủ để cái điều làm Mạnh băn khoăn suốt từ tối qua tới giờ không còn nữa: Anh không còn  sợ mình bị nhầm. Bao năm rồi anh vẫn không thể nào quên được đôi mắt lúc nào cũng cười trên khuôn mặt thanhh tú ấy.

   Hưng đặt chiếc ghế đẩu mời cô gái ngồi rồi anh ngòi xuống giường với Mạnh. Chiếc đèn hoa kỳ lù mù đặt ở bàn chỉ đủ hặt một vầng sáng vàng nhạt về một bên người con gái.

   - Anh đã đỡ chưa?- Cô gái hỏi Mạnh.

   - Người lính chúng tôi cắt cơn sốt là khoẻ ngay thôi - Mạnh cố gượng dậy.

   - Anh ngỡ tôi không biết sốt rét là gì sao?

   - Sốt định kỳ như người vay nợ đến hạn phải trả ấy mà!

   Và như muốn chứng thực điều mình nói là đúng nên Mạnh đã ngồi ngay dậy. Hưng chồm tới đỡ lấy Mạnh, bắt anh nằm trở lại.

   - Cho mình được tiếp khách nữa chứ! Rồi Mạnh nói với cô gái - Cậu ấy còn khắt khe hơn ông thầy thuốc khó tính.

   Sau khi xếp chăn gối cho Mạnh tựa và gối đầu lên thành giường để có thể nói chuyện được, Hưng đi pha trà.

   - Anh ở chiến trường nào?

   - Tôi ở Trường Sơn.

   Cô gái bưng miệng cười:

   - Anh làm như cả Trường Sơn chỉ có một chiến trường. Đồng chí xem thường nhau quá!

   - Đâu ạ.

   - Cậu ấy ở tít đỉnh Trường Sơn. Ông tướng là kỹ sư hữu tuyến- Hưng vứa rót nước mời mọi người.

   - Vậy đơn vị anh có phải K.87 không? Cô gái hỏi hấp tấp rồi chăm chăm nhìn Mạnh.

   Cổ họng Mạnh như đắng lại. Anh nhìn thẳng vào cô gái. Và...trog khoảng tranh tối tranh sáng của căn phòng này. Mạnh biết cô gái đã không nhận ra anh. Anh chậm rãi nói:

   - Cậu ấy nói vui đấy! Đơn vị tôi ở trường Sơn nhưng dưới chân núi.

   - Thế mà tôi cứ tưởng anh ở trên ấy thì thích quá. Cách đây bốn năm, tôi đã đến đấy phục vụ. Bây giờ không biết anh em ở đấy còn nữa không?

   - Chị vào tận nơi ấy thì giỏi thật! - Lúc này Mạnh đã hoàn toàn trở lại bình tĩnh.

   - Không dễ đâu. Lúc đầu các anh trong đoàn nhất định không cho đi. Sợ leo núi không nổi. Lo tôi vào bãi "toạ độ sốt rét" ấy thế nào cũng bắt anh em võng ra.

   - Các bố lo "thân gái dặm trường"mà lại - Hưng nói cắt ngang.

   - Nghe vậy tôi hơi băn khoăn. Tôi không sợ vất vả. Nhưng chỉ lo nhỡ ra sốt rét ác tính, tôi nghe nói những người chưa sốt rét bao giờ cũng dễ bị ác tính, phiền anh em phải cáng ra thì tội quá. Nhưng rồi tôi quyết định đi vì nghĩ những người đang sống nơi heo hút đó đang mong chờ chúng tôi. Và tôi đã đi đến nơi. Điều ấy làm cho cả đoàn bị bất ngờ. Còn tôi sau lần ấy tôic ó một kết luận nhỏ: bất kỳ trong việc gì cứ làm quá sức mình đi một tí sẽ thích hơn và có khi chính đấy còn là niềm hạnh phúc không ngờ.

   - Kết luận thú vị nhỉ? - Hưng vừa cười vừa nhìn cô gái.

   Cô gái bỗng bối rối khi biết rằng, mọi người dường như không tin điều cô vừa nói. Cô quay sang phía Mạnh:

   - Thật đấy! với tôi quả thật là như thế.

   - Tôi có một anh bạn nghĩ hệt như chị.

   Cô gái nhìn Mạnh cười biết ơn.

   - Chị là diễn viên đã lâu chưa? - Mạnh hỏi đột ngột.

   - Tám năm. Nhưng với tôi, có lẽ thực sự của công việc chỉ có cách đây bốn năm, sau chuyến đi công tác đầu tiên của tôi ở chiến trường - Cô gái nói thêm.

    - Tại sao?

   Cô gái mỉm cười:

   - Cõ lẽ tôi phải dẫn giải dài dòng để chính hai anh kết luận hộ vậy.
Đấy là lần đầu tiên đoàn chúng tôi đi pục  vụ chiến trường - Khi cô gái bắt đầu kể. Mạnh đã ngồi hẳn dậy. Anh tựa lưng vào thành giường. " Xưa nay hắn vẫn là thằng say chuyện". Hưng nghĩ vừa đăt vào tay Mạnh cốc nước chanh nóng và bắt anh uống.

   Vì đang chiến đấu ác liệt, nên đoàn chúng phải phân tán đi phục vụ lẻ các đơn vị. Tôi cùng mấy đồng chí nam đi theo một đơn vị thông tin. Anh em ở rải rác suốt dọc Trường Sơn. Đơn vị ở sâu nhất từ đông sang tây là k.87. Gần trưa chúng tôi đến nhà kho của đơn vị thì trời đổ mưa. Mưa núi hạt to như đồng xu đổ xuống cứ như đóng dấu lên mặt đất xốp. Bầu trời phút chốc như cái vung úp sụp lên đầu tôi. Mí mắt như có ai kéo trì xuống. Chân tay rã rời. Người ngai ngái bần thần như vừa muốn làm một cái gì như vừa không muốn làm gì hết. Anh em biết tôi sắp sốt quyết định tôi ở lại.

   Hai đồng chí được K.87 cử đón đã chờ chúng tôi từ đêm qua, nhìn tôi phân vân. Các anh cho biết vào đến đấy còn phải đi già nửa buổi đường. Lắm dôc. Đi theo đường giao liên khá vất vả. Một trong hai đồng chí đưa cho tôi một cốc nước đừng và hai viên thuốc sốt. Đấy là một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuỏi. Trên gương mặt mai mái vì sốt nhiều là đôi mắt trầm tĩnh. Cái ánh nâu trong đôi mắt ấy như hai ngọn lửa mà bất kỳ ai nhìn vào đấy cũng thấy một cái gì đầm ấm. Và có lẽ chính vì thế mà tôi buột miệng hỏi anh:

   - Liêu tôi có đi nổi không anh?

   Anh nhìn tôi. cái nhìn như muốn đo sức vóc của tôi đi đến một lời quyết định. Và khi tôi biết mình bé nhỏ chỉ đứng tới vai anh ta thì tôi đã cầm chắc câu trả lời của anh. Mặt tôi xìu đi.

   - Với chúng tôi thì những ngày sốt, chúng tôi vẫn gùi hàng trên đường.

   Tôi ngước nhanh, nhìn anh. Hai ngọn lửa đã biến thành hai giot sáng vời vợi trên màu mắt trong veo của anh. Thế là một quyết định mãnh lịêt đến với tôi từ câu ấy. Tôi bỏ hết các thứ lại, chỉ mang theo bộ quần áo với một tấm dù mỏng để đi cho nhẹ.

   - Chị cứ để  nguyên cả ba-lô, tôi mang hộ! -Anh ta nói.

   - Nặng lắm. Không thể mang nổi đâu! - Tôi nhìn chiếc ba-lô với trăm thứ bà rằn của con gái mà ngao ngán.

   - Chị cứ để chúng tôi mang hết, không nhỡ vào trong kia thiếu thứ gì chúng tôi chẳng ai tương trợ chị đâu.

   Tiếng cười toả ra và chúng tôi lên đường. Đi hết mấy độ dốc trời tạnh hẳn mưa. Tôi dừng lại cởi tấm ni-lông và buồn cười là mặt ngoài của nó thì khô mà mặt trong lại nhơm nhớp ướt.

   - Chị tháo nhièu mồ hôi thế may ra sẽ không sốt- Đồng chí đưa đường bảo thế, rồi anh nói thêm- Chị kiếm chố thay quần áo đi không nó ngấm nước vào, lạnh, dễ ốm.

   Ngày xưa mẹ tôi chẳng bao giờ bảo nổi tôi một điều gì về những chuyện như thế. Thậm chí có hôm mùa đông, tôi gội đầu xong, đầu sũng nước, mẹ tôi lấy khăn bông lau, tôi không nghe và sau đó cảm một trận suýt chết nhưng cái tính khí ấy đâu vẫn hoàn đấy. Còn lúc ấy không hiểu sao tôi đã làm theo lời anh ấy ngoan ngoãn như một đứa trẻ.

   Quá trưa, chúng tôi tới một con suối thì gặp một đoàn bộ đội gùi hàng đang nghỉ bên bờ.   Thấy tôi, mọi tiếng cười lập tức bặt lại và sau đấy là những cặp mắt chiếu xoáy. Người ta nói "Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò". Còn với tôi, trong phút giây này thì "Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba là lính". Có trời mà biết được họ sẽ 'tặng" mình những lời bình phẩm gì đây.

   - Ai...qua suối cõng thuê đ.. â...y...!
 
   Tiếng cười rào lên như mưa đá. Nghe giọng bắt chước y hệt những người rao mua lông gà lông vịt, tôi biết chắc anh lính ấy là người Hà Nội nên tôi dạn hẳn ra.

   - Đồng chí đồng hương ơi! - Tôi gọi.

   - Đồng khói thôi.

   Trận cười lại rào lên. Tôi có cảm giác trận cười ấy dội xuống người tôi. Trong lúc chưa biết tìm đâu ra đất để chui thì một đoàn dồng bào Pakô, Vân Kiều đi đến. Họ cũng gùi hàng chiến dịch. Họ cười, nói nhìn tôi:

   - "Con mun o lư hung!" (Con gái đẹp hung!). Nhìn nét mặt hiền từ xởi lởi của họ tôi đã nắm chặt tay từng người lắc mạnh. Một thanh niên cầm chặt tay tôi, anh vừa lắc, vừa nói: "Bộ đội o lư hung!". Tất cả cười ồ lên. Tôi bối rối vì xấu hổ, cầu cứu cả đoàn. Tôi  nhìn người chiến sĩ đưa đường. Trong đoàn anh là người duy nhất hiểu tiếng Vân Kiều nhưng anh chẳng chịu nói cho tôi hay mà chỉ tủm tỉm. Thấy tôi càng bối rối, đồng bào càng siết chặt tay tôi. Mọi người tính đến chuyện qua suối. Mưa rừng suối lũ rất nhanh. Nhìn những  người lội ra giữa dòng, nước ngập quá cổ, anh em trong đoàn nhìn tôi. "Biết mà, dính vào các bà lắm cái lôi thôi". Tôi như đọc được câu đầu cửa miệng ấy trong mắt mọi người. Và tôi lội ào xuống suối. Anh chiến sĩ đi đường bỗng nắm tay tôi kéo lại và nhoáng một cái, anh đã nhấc bổng tôi lên. Mọi người chuyền tôi như chuyền một quả bóng qua suối.

   Chuyền một quả bóng qua suối cõ lẽ không có gì phải nghĩ. Chuyền một đứa trẻ qua suối có lẽ không có gì phải phân vân. Nhưng chuyền một người con gái thì không đơn giản. Tôi cảm  nhận điều ấy trên mỗi cánh tay của mỗi chiến sĩ. Bởi thế khi đặy chân xuống bờ bên kia tôi đứng lặng đi: với tôi mọi lời nói dường như không còn đủ nghĩa.

   Chúng tôi chia tay với bộ đội và đồng bào. Anh thanh niên Vân Kiều tặng tôi chiếc gậy hèo rất đẹp của anh, nói: "Bộ đội o lư đi mạnh giỏi hây!". Mấy chị phụ nữ bỏ cả tẩu ra , cười với tôi.




















GIẾNG TRONG

Chỉ còn chừng cây số nữa là hết cánh đồng. Quân lính anh nào cũng khát. Nước trữ trong bi đông vắt giọt đến mấy bận, khô cong. Dẫu Tào Tháo ở đây cũng khó mà động viên nổi binh sĩ. Vinh cho trung đội dừng lại, bảo: “Xóm làng kia rồi. Nhưng liên lạc tiền trạm chưa báo. Địch ta khó biết. Cứ đi. Chỉ được qua. Cấm dừng. Khát ráng chịu, còn hơn tất cả phải ăn đòn”. 

Truyện ngắn . LÊ TẤN HIỂN

Cánh đồng Chó Ngáp – nghĩa là cánh đồng dài, rộng quá, đi hết, đến chó cũng phải ngáp. Có thể, những đoàn quân đầu tiên đi qua đây đã đặt tên như thế. Dẫu có hơi quá quắt, nhưng quả thật, lính mình không ngoa. Giữa chiến trường, cái quá quắt cuả ngôn từ lại có gì như dễ thương, thậm chí, cần thiết nữa.
Đơn vị tôi đang hành quân qua cánh đồng mang cái tên khôi hài dữ tợn này.
Đêm ấy không trăng. Nhưng trời đầy sao. Chúng tôi đã thấm mệt. Mồ hôi ướt đẫm lưng áo, thấm sang cả ba lô, rồi lại khô. Cứ thế đến mấy lần, mà vẫn chưa đi hết cánh đồng. Tiểu đội hậu cần, vốn đã lủng củng nồi xoong, lại dắt thêm con cầy tơ - đổi được của đồng bào dân tộc, nghe đâu bằng một cái chăn chiên. Biết lính trung đội mê món “mộc tồn”, mấy cậu anh nuôi cố giữ, định đến vị trí tập kết làm bữa khao quân trước khi vào trận mới. Nhưng chưa hết nửa cánh đồng, con chó đã nằm rịt, không chịu đi, tròng dây kéo cũng không nổi. Đành để cu cậu nằm lại. Tội nghiệp. Nó chưa ngáp, nhưng chắc gì sống nổi giữa đồng đất bao la nà. Mấy thằng tích giữ củ riềng trong túi cóc chép miệng tiếc. Có ai đó lên tiếng: “Dào, nó chưa chết là may. Ngay tao cũng sắp... ngáp đến nơi rồi. Khát khô cổ...”
Người vừa nói là Vinh. Vinh “ba toác". Nó là thằng đa ngôn bạo mồm nhất đại đội. Thằng ruột ngựa, nhiều khi đến sống sượng. Nhưng chẳng một ai giận được nó bao giờ, mặc dù nhiều khi phát chối, phát ngượng vì nó.
Không giận nổi, vì nó luôn nói đúng. Hồi còn ở pháo, thời huấn luyện, có đoàn kiểm tra của “sư” xuống thăm. Vinh đang “đóng vai trực chiến”. Thấy không mang mũ sắt trên mâm pháo, một ông trợ lý hỏi: “Sao không đội?”, nó tỉnh bơ: “Dạ trực vờ, đội làm gì. đánh nhau thật, khỏi nhắc. Mới lại, cơm đã ít, nặng đầu chỉ chóng đói...”. Mấy đứa cùng khẩu đội tức lắm, mà không nhịn được phải quay đi, cười. Vậy mà nó được việc. Ngay hôm sau đoàn về, thấy cơm nhiều hơn. Không ai nói ra, nhưng biết đấy do công thằng “ba toác”.
Một lần khác, hồi còn trên đất Bắc, đơn vị chuẩn bị ăn tết. Có mấy thằng lính nhớ nhà không chịu nổi, trốn ra đường cái, vẫy xe “vù. Ú ớ thế nào vớ ngay phải xe trung đoàn bộ. Thế là cả tốp bị mời về. Hôm sau hội bỏ ngũ phải lên đọc kiểm điểm trước đại hội. ông chính uỷ dự nghe, bảo: “Khuyết điểm rõ rồi. Còn tự nhận kỷ luật, chưa thấy ai nói...”.
Bỗng từ dưới hàng quân, một người bước lên, giậm gót, đứng nghiêm chào. Thì ra là Vinh. Nó dõng dạc: “Tôi xin bảo lãnh và cam đoan với danh dự chiến sĩ, đây sẽ là lầm lỗi cuối cùng của chúng tôi trước lúc ra trận!”. Chính ủy nhíu mày, nhưng xúc động nhiều hơn là ngạc nhiên: “Đồng chí nhân danh gì?” – “Dạ, đồng hương” – Vinh đáp gọn lỏn. Kết quả thật không ngờ. Mấy tay trốn hụt được về hàng. Kỷ luật cũng được xí xóa. Ông chính ủy thay vì “lên lớp” nán lại hàng giờ với đại đội, kể chuyện kỷ niệm thời tân binh...
Từ đó, Vinh “ba toác” trở thành niềm tin cậy và chỗ dựa của lính tráng đại đội. Bất kể đầu bò đầu bướu đến đâu, hễ Vinh đã nói một tiếng là răm rắp.
Trước ngày vào B, Vinh được đề bạt A trưởng. Rời đất Bắc, nó được phong trung đội phó. Hành quân được hai trạm, tay trung đội trưởng “khung” lăn ra sốt rét, phải nằm lại. Thế là “ba toác” được chỉ định nắm quyền. Lên cán bộ, nhưng mồm miệng nó vẫn thế, có khi còn bỗ bã hơn. Được cái nó làm ra trò, từ chỉ huy, quản lý, phân công, cách đánh, cách lui... một mình nó một kiểu. Nhưng trận nào cũng thắng. Lính các trung đội khác, trông sang mà thèm.
Chỉ còn chừng cây số nữa là hết cánh đồng. Quân lính anh nào cũng khát. Nước trữ trong bi đông vắt giọt đến mấy bận, khô cong. Dẫu Tào Tháo ở đây cũng khó mà động viên nổi binh sĩ. Vinh cho trung đội dừng lại, bảo: “Xóm làng kia rồi. Nhưng liên lạc tiền trạm chưa báo. Địch ta khó biết. Cứ đi. Chỉ được qua. Cấm dừng. Khát ráng chịu, còn hơn tất cả phải ăn đòn”.
Đến khi qua cái làng ấy, nghe tin đơn vị khác mấy thằng suýt chết vì uống phải nước giếng có thuốc độc. Cả trung đội lè lưỡi. Thoát nạn. Chúng nó xúm nhau vào tung Vinh lên, reo hò, khâm phục.
Nhưng vẫn không có nước. Lại suốt một ngày nhai lương khô thay cơm, bụng dạ ráo như bánh đa. Đến mồ hôi cũng không còn mà ra nổi. Ai cũng biết, nhịn ăn một ngày, còn dễ. Chứ nhịn uống, khó lắm... Vinh vừa đi ngược hàng quân, vừa nói: “Thằng nào có tiếu lâm, kể đi. Giời bể, đông tây, yêu đương, ma quái gì cũng được. Hay thằng nào có giọng, thì hát, nhạc vàng, nhạc đỏ, nhạc xanh, cho phép tất. Cố lên vài chặng nữa. Cây cỏ sống được thì mình sống được. Lính chưa gặp đạn bom, muốn chết cũng khó...”
Tang tảng sáng. May thay, có liên lạc của C báo: “Vùng an toàn. Cho quân nghỉ nấu cơm. Nhắc các đơn vị tuyệt đối chấp hành chính sách dân vận!”. Vinh nghe xong, cười ha hả. Đợi cậu liên lạc đi khuất, bảo: “Lại có “chất tươi” rồi. Nghe đây, thằng nào thằng nấy cất kỹ “chim đi”! Đứa nào để sổng, để bay, cứ đúng luật thời chiến mà xử: Chặt!”.
Các A trưởng báo: Anh em xin được đi kiếm nước uống. Vinh lệnh: “Giữa nguyên hàng quân. Tạt vào ven đường mắc võng. Sẽ có người mang nước đến tận mồm. Mệnh lệnh cứ ào ào, bỗ bã như thế, mà nghiêm. Xuống tới tiểu đội quân chấp hành tắp lự. Cấm thấy tiếng kêu ca phàn nàn gì. Lính trung đội quen rồi. Vinh đã nói là làm. Vả lại, càng vào sâu vùng lửa đạn, họ càng biết rằng, nắm giữ sinh mạng chiến sĩ, không ai khác, chính là người chỉ huy trực tiếp này.

Vinh đi kiểm tra một lượt hàng quân. Rồi lấy thêm hai người – Chi và Tối – hai vị đồng hương trốn hụt hồi tết năm ngoái cùng đi. Tối, thực ra tên là Tôi. Điểm danh trung đội đến lần thứ hai, Vinh bảo: “Tên gì nghe khó chịu bỏ mẹ, vào đánh nhau rồi lẫn lộn, chết oan có ngày. Đổi! Từ nay gọi là Tối. Xấu một tó, nhưng đố thằng nào dám nhầm...”

Vinh – Chi và Tối, thành cái bộ ba “tam cúc”, cũng chẳng ra ra “tướng sĩ tượng” hay “xe pháo mã” gì, chỉ biết, cứ hành quân hay đánh trận thì thôi, nhưng hễ có chặng nghỉ, lại kè kè, không thể thiếu. Thấy Chi có vẻ giữ ý, Vinh to tiếng tuyên bố trước trung đội: “Chúng tao đồng hương thân nhau hơn là đương nhiên. Đừng thằng nào thắc mắc ghen tỵ gì. Luật chiến trường không ai cấm móc ngoặc. Mẹ, toàn súng, đạn với cát – tút, thằng nào cũng có cả. Móc cái gì?”. Vinh bằng tuổi Tối. Còn Chi kém hai. Thấy hai đứa cứ “anh anh, em em”, Vinh phát khùng: “Tao hỏi thật, chúng mày gọi tao là anh, vì sao?”. Cả hai thằng đang ngớ ra, chưa hiểu, Vinh tiếp: “Vì tao là chỉ huy hay vì hơn tuổi?”, rồi thẳng một lèo: “Thôi cứ mày tao mẹ nó đi cho dễ, anh em rồi có lúc phải nể, phải nhường. Nể, nhường ngoài mặt trận khó xử lắm...” Tối, vốn dân đại học văn hoá lý lẽ: “ Thôi, đã là anh em, căn vặn làm gì. Cũng chẳng nệ tuổi tác hay chức vị. Chúng mình kết nghĩa. Xong chưa?”. Tư đó, Vinh mới chịu nghe, nhưng còn dặn thêm: “Thằng nào không thực lòng, vào trận, cho dính đạn chết quách. Giả dối, chả cứ anh em, sống cũng bằng thừa”.
Ba người vào làng. Vinh bảo: “Tao đi lo nước cho anh em. Thằng Chi, kiếm nhà nào không có con cái, mình vào mắc võng, làm một giấc. Còn thằng Toói, xem đâu có hoa quả gì, “dân vận” một ít về đây.
Độ một tiếng sau, thấy từ trong làng, bốn nă cô gái, chừng như cũng vừa thay bộ cánh mới, lũ lượt gồng gánh tiến ra. Họ mang nước tới tận hàng quân. Chè tươi hẳn hoi. Lính tráng được dịp thoả thuê, đem hết bình tông, cả thùng lương khô ra chứa. Lại lâu lắm mới có dịp gặp dân, nhất là con gái, anh nào anh nấy ra sức khua môi múa mép. Pha trò, châm chọc. Lính mà, ở đâu chẳng thế. Ai giận được.
Chi đi khắp làng, rồi quay về thẽ thọt: “Khó quá, nhà nào cũng có, ít nhất một cô gái, anh Vinh ạ...” Vinh thở dài: “Thôi cũng đành! Chọn lấy một nhà, mắc võng ngoài vườn... Mà mình có ngủ với chúng nó đâu mà sơk”
Còn Tối, sở dĩ Vinh phân đi kiếm hoa quả, cũng có lý do của nó. Thằng này cứ như thể sinh ra là để làm chỉ huy, biết người biết của, ranh mãnh ra phết. Chả là có một banạ, ba đứa vừa mắc võng giữa rừng, đang đung đưa kể chuyện quê, chợt Tối nhìn lên tán lá phát hiện một cành quéo, có quả hẳn hoi. Tối la lên. Ba đứa chụm đầu nhìn, nuốt nước miếng. Ở rừng, vớ được thứ hoa quả vườn, cứ như bắt được vàng, lại là của chua, quý lắm. Hoá ra, họ nằm ngủ cách một cây quéo rừng có dăm mét mà không biết. Nhưng khốn nỗi, cây cao chót vót, thân to lì chẳng thấy cành chạc gì, xung quanh lại toàn giống săng lẻ trơn tuồn tuột, khó mà trèo hái. Chỉ có bắn tỉa từng quả là chắc ăn nhất, đạn thì không thiếu, nhưng tiếng súng, sợ lộ bí mật hành quân. Đành chịu chết. Tối chót mạnh mồm: “Tao vốn dân trèo me trèo sấu thành thế, cao thế chứ cao nữa cũng chưa là gì...”. Vinh cười khẩy: “Nói phét! Tao thách. Thằng Tối mà hái được mươi quả xuống đây, tao xin... giặt quần cho mày!” Bị kích động, Tối nghĩ mưu, nối ba cái thắt lưng to vào nhau, buộc ngang lưng như kiểu dây an toàn của thợ điện. Loay hoay một hồi cũng leo được tới ngọn. Bữa ấy, chẳng phải mươi quả, mà cả trung đội ăn canh chua một tuần mới hết quéo.
Trưa. Lính trung đội mệt, ăn uống xong là lên võng ngủ hết. Tối, Vinh và Chi chọn ba gốc cây sau vườn, mắc võng thành hình tam giác. Mà nào đã ngủ được. Chi ngây thơ: “Làng xóm gì chỉ thấy rặt con gái!”. Vinh quát: “Ngu, thế mà cũng mở miệng nói. Có về làng mình, bây giờ cũng thế. Khác gì. Trai tráng ra mặt trận cả, gì mà không chỉ còn con gái... Thế con bé nhà mày đâu mà chưa thấy mặt mũi ra sao cả?” – “Chắc nó thẹn...” – “Thẹn? Tao cam đoạn nếu đang trong nhà, thế nào nó cũng nấp khe cửa nhìn trộm chúng mình...”. Rồi cả ba phá lên cười.
Nửa đêm hôm ấy, liên lạc báo, chúng tôi mới được lệnh thu võng hành quân. Đời lính, kiểu thoắt đến thoắt đi, oái ăm thế là thường. Nhưng với Vinh lần này, thấy nó cứ ngơ ngẩn đến khó hiểu. Chi nháy tôi: “Lại có chuyện gì rồi!”.
Quả nhiên, độ ba giờ sau, đi qua một cánh rừng khộp lưa thưa, Vinh lệnh cho trung đội dừng lại, đặt ba lô, tập hợp thành hàng ngũ hẳn hoi. Giữa đường hành quân, chuyện như thế là hiếm. Nên mọi người đều đoán hẳn có việc gì hệ trọng sắp xảy ra.
Sáng trăng suông. Vinh đứng trước hàng quân dễ đến mấy phút, chẳng nói năng gì. Không khí lặng lẽ, hồi hộp. Cuối cùng nó nói, giọng run run là lạ:
 - Chúng ta từ đất Bắc vào đây, sướng khổ, sống chết có nhau. Lòng dạ như cái bánh chưng, chẳng giấu giếm lừa dối nhau điều gì. Từ ngày trên bảo tôi làm chỉ huy, tôi đã biết số phận bọn mình gắn bó với nhau rồi. Biết anh em tin, tôi cũng cố xứng đáng với anh em, bấy nay chẳng nề hà phân biệt...
 Ngưng một lát, Vinh tiếp:
- Nhưng hôm nay, tôi đã phạm tội lừa dối anh em, hưởng vui thú một mình... Tôi muốn dừng lại đây, để trung đội xử tội, đúng luật chiến trường, như tôi đã nói...
Cả trung đội ngạc nhiên, ngơ ngác chưa biết chuyện gì. Như hiểu ra, Vinh nói:
Đêm qua, cũng là lần đầu tiên trong đời, không làm sao giữ nổi... tôi... đã ngủ với một cô gái trong làng. Anh em không biết, trên không biết, nhưng tôi biết. Tôi phải chịu kỷ luật trước anh em. Tất cả có thế, anh em xử đi...!
Cả trung đội im phăng phắc, không biết xử lý sao. Anh em ngạc nhiên và bàng hoàng nhiều hơn vì cái tính cách “thẳng thừng” đến độc đáo chưa từng thấy ở người chỉ huy của họ. Cuối cùng, các tiểu đội xin phép được hội ý, thảo luận, rồi cùng thống nhất uỷ quyền Chi và Tối truyền đạt ý kiến anh em tới Vinh. Đại ý là: “đẻ bảo đảm hành quân chiến đấu, trung đội tiếp tục lên đường. Khuyết điểm B trưởng chưa có căn cứ và nhân chứng, chưa thể quyết định kỷ luật. Đợi hết chiến dịch luc xét lại. Mệnh lệnh chiến đấu là trên hết, ai cũng phải chấp hành. Vừa mềm vừa rắn, lại có tình có lý, ấy thế mà cũng phải mỏi mồm mới thuyết phục nổi Vinh. Trước lúc hành quân tiếp, Vinh còn nói: “Chúng mày quá đáng lắm. Nghĩ cho kỹ mà xem. Đừng tưởng vậy là tốt với tao. Người đời bảo “nhất tội nhì nợ”, đáng tao chỉ mắc một, giờ lại phải đeo hai... Tội còn cho – nợ lỡ tao chết, ai trả?... Rồi cứ thế lùi lũi đi. Suốt đêm hành quân ấy, không thấy nó nói gì.
... Chiến dịch nối tiếp chiến dịch. Trung đội đã cùng C phối hợp đánh chiếm và giải phóng nhiều chốt điểm và địa danh quan trọng. Trên gọi trung đội là “trung đội Nguyễn Quang Vinh”, nên thành đơn vị điển hình với nhiều cách đánh táo bạo và dũng cảm. Các tiểu đội cũng đều đã có đứa hy sinh. Bận rộn, tất bật, chuyện của Vinh với cô gái đó, cũng không ai nhắc nữa.
Cho đến một đêm, giải phóng xong thị trân Đ., trung đội nghỉ trong một rừng cao su bên sườn đồi. Ba người lại mắc võng bên nhau, thức rất khuya. Vinh hỏi: “Mai mốt toàn thắng, nếu được về, việc đầu tiên chúng mày sẽ làm gì?”. Tối nói sẽ trở lại trường địa học. Chi bảo sẽ “cưới vợ trước đã, rồi làm gì thì làm. Nó chờ lâu quá rồi”. Còn Vinh, sau khi im lặng hồi lâu, nó nói:
Việc đầu tiên là tao sẽ đào một cái giếng, thật sâu, cho mẹ tao tắm. À, ừ, phải xây một cái nhà tắm đàng hoàng nữa. Tội nghiệp bà cụ, tao đi rồi, phải gánh nước mà dùng. Chùng mày còn nhớ không, cái ngày hành quân qua đồng “Chó ngáp ấy. Càng khát, tao càng thương mẹ ở nhà, đến rớt nước mắt. Quê mình nghèo quá, mang tiếng gần thành phố, mà đến hạt nước lã cũng chẳng mấy nhà sắm nổi làm của riêng...
Ngừng một lúc như nuốt cơn nghẹn ngào, Vinh trầm ngâm: “Rồi cũng từ cái giếng, mới sinh ra chuyện của tao với người con gái làng chiến khu ấy...”

Rồi nó kể:

“Tối hôm ấy, sau khi cho trung đội giải tán về ngủ lấy sức hành quân, tao cũng về võng, ở cái vườn nhà cô bé mà thằng Chi chọn ấy, đặt lưng, ngủ liền. Được một giấc khá dài, tự nhiên tao thức dậy. Khôn gian im ắng. Trời trăng suông, mà sáng lắm. Trong gian nhà vẫn thấy có ánh đèn. Tao thấy nóng nực nhớp nháp, bỗng muốn đi tắm. Mà của đáng tội, nào đã biết cái giếng ở đâu. Thế là trở dậy, đánh bạo và vô tư nữa, vào gõ cửa. Có tiếng con gái đáp ngay, chứng tỏ cô ta vẫn đang thức. Ngọn đèn khêu to, rồi cửa mở. Trời, chúng mày có biết không, khó mà tưởng tượng nổi, một cô bé trẻ, chừng hai mươi, đẹp, tóc buông sau vai trong bộ đồ ngủ, nói không quá, cứ như tiên giáng tràn. Giọng nói nữa, sao mà nhẹ nhàng duyên dáng đến thế. Tao sững lại một lúc, đâm lúng túng, mãi mới nói nổi câu hỏi. Cô bé gọi tao là “thủ trưởng. Chứng tỏ đã theo dõi sinh hoạt của trung đội từ sáng. Dẫn tao ra cái giếng sau nhà, nhìn phía sau, dưới ánh trăng, thân hình cô bé cân đối, chắc lẳn và nói thật, hấp dẫn nữa. Ra tới giếng, cô ta còn hướng dẫn “thay đồ chỗ này, để quần áo chỗ kia, múc nước ở đó...” ròi bảo “Cứ tắm tự nhiên, qua giếng nhà em, thủ trưởng không tắm cũng uổng...” và quay vào.
Khi múc nước tắm, tao mới hiểu ý câu cô bé vừa nói. Cái giếng tròn và to hiếm thấy, đầy ắp, múc không cần dây. Nước mát, ngọt và cảm giác trong sạch tinh khiết kỳ lạ. Đang giội ào ào, lại thấy cô bé đi ra, tao vòng sang thành giếng bên kia, thụp thấp người xuống, quay lưng lại. Nghe tiếng cô bé: “Em mang xà bông để anh dùng. Mấy bữa nay kẹt ở khẩu, không mua được thứ tốt. Xài tạm nghen...” Tao chờ cô bé vào hẳn, mới quay ra tắm tiếp. Xong xuôi rồi, mát mẻ, thơm tho, tìm áo mặc chẳng thấy đâu nữa. Thì ra, lúc ra đưa xà phòng, cô bé đã cầm cái áo của tao vào nhà. Tình thế thật quá quắt, nhưng không biết đây là âm mưu hay vô tình, tao đang luống cuống thì có tiếng vọng ra, nhỏ nhẹ: “Tắm rồi há, áo của anh mang vô đây rồi. Vô nhà mà thay...” Chết cha, đến nước này còn biết làm gì hơn. Thế là tao khép nép, khúm núm bước vào. Cánh cửa khép hờ, đèn khêu đủ sáng, tao thấy rõ ái áo của mình vắt trên sợi dây thép căng trong nhà, bên trên có tấm khăn tắm trắng tinh. Đẩy cửa bước vào, trong nhà không có ai. À, ra thế, cô gái tế nhị nhường chỗ cho tao thay đồ. Có phần yên tâm hơn, tao máy nhỏ ngọn đèn, rồi bình tĩnh lấy khăn lau người.
Có tiếng chốt cửa rất khẽ, tao quay ra, chúng mày tin nổi không, trong bóng tối mờ mờ. Cô bé, và cả tao nữa, như chết lặng, đứng im mấy giây, nhìn nhau, rồi đột nhiên cô lao vào ôm lấy tao, ghì xiết…
Cuối cùng, trước lúc tao về võng, cô bé mới bảo: “Hết chiến tranh, anh về đây nhé. Ba má em giặc bắn. Anh hai cũng hy sinh rồi…” Tao xúc động quá, quay vào ôm chặt cô bé, nghẹn ngào; “Tan giặc, nhất định anh sẽ về. Anh sẽ lấy em!” Sực nhớ, còn giữ được tấm ảnh, tao giở túi lấy ra đưa cho cô, rồi quay về võng.
Cũng may, chỉ lát sau có lệnh hành quân, thú thực, không thì, một là tao sẽ lại vào nữa, hai là sẽ nằm mà khóc suốt đêm ấy mất. Tao thương cô bé vô cùng. Đơn vị đi, tao cũng chẳng kịp nói với cô ấy lời nào. Nhưng, chúng mày tin tao không, cái câu tao nói lúc ấy là nói thật đấy. Hết chiến tranh, tao sẽ lấy cô ấy, rồi đưa về Bắc với mẹ tao.”
Chi và tôi lặng đi, không ai nói thêm nữa. Câu chuyện kể như một lời tự thú, mà họ lại cảm thấy không gợn chút tội lỗi nào. Có tiếng pháo địch ì ầm từ xa, kéo ba dòng suy nghĩ chân thành và non trẻ trở về với thực tại. “Ôi, chiến tranh bao giờ mới hết. Bao giờ đất nước sạch bóng quân thù.” 
Và họ cùng đi vào giấc ngủ với những mộng mơ khác nhau. Nhưng thảy đều trong trẻo, hiếm hoi và thật xa lắc, mênh mang với thực tại.

Sớm hôm sau, trước lúc lên đường, tự nhiên Tối và Chi nắm chặt tay Vinh. Mà sao lại bắt tay? Cùng trong hàng quân cả mà. Vinh bảo: “Kỳ này ác liệt đây. Sẽ lâu mới gặp lại”. Tối như bịn rịn: “Gì thì gì, tan trận, tìm nhau nhé”. Còn Chi, mắt nó long lanh: “Còn sống, thì chúng mình trước sau cũng gặp lại. Nhưng anh Vinh, anh phải về với cô ấy nhé, cô gái có giếng nước trong ấy…”
Mệnh lệnh hành quân thần tốc. Đơn vị được lệnh phối hợp cùng các binh chủng tiến về Sài Gòn. Trung đội phải xé lẻ ra, đi với tăng, với thiết giáp, với pháo… Bộ ba, mất liên lạc với nhau từ sớm hôm ấy. Và họ không thể ngờ rằng, đêm qua, lại là đêm cuối cùng còn được mắc võng bên nhau.
Chiến tranh qua đi. Đã hai chục năm đất nước im tiếng súng. Với một cuộc đời, thời gian ấy cũng dài. Nhưng với những người lính của trung đội, một phần năm thế kỷ yên bình sao mà nhanh, và ngắn ngủi. Dư âm của đạn bom cùng những kỷ niệm chiến trường, trong mỗi chiến sĩ trung đội, vẫn còn rõ nét lắm. Tất cả như vừa mới hôm qua…

Cả trung đội, ngoài những người vĩnh viễn nằm xuống ngoài mặt trận, cứ rơi rớt, thưa thớt mỗi năm… Tất tật chỉ còn non nửa. Non nửa, theo cách gọi của chiến trường, nghĩa là trung đội vẫn còn.
Họ thỏa thuận với nhau một cái nếp: hàng năm, cứ đúng ngày kỷ niệm hội tòng quân, tất cả mọi người, bất kể xa gần bận rộn, họp nhau về bên nếp nhà tranh ở một xã ngoại thành, nhà liệt sĩ Nguyễn Quang Vinh – gặp mặt. Họ góp nhau xây đào cho bà cụ Vinh một cái giếng, có căn nhà tắm xinh xinh. Cứ mỗi lần về đây, họ lần lượt ra tắm. Cái giếng nước mát, trong lạ kỳ, nhìn thấu tới đáy. Một điều lạ, giữa lòng giếng, trồi lên một vật gì lấp lánh, như tỏa sáng. Những hạt bọt nước li ti cứ từ đó nổi lên liên tiếp không ngừng.
Lần nào cũng vậy, khi vặn đài sen xả nước đầy mặt mũi, nước giếng mát lạnh, mà cảm giác những giọt nước ấm nóng ứa ra từ khóe mắt mỗi người còn rõ lắm. Họ vừa tắm, vừa thầm khóc thương nhớ Vinh, không sao cầm lòng nổi…

Đoạn kết

Chi đã lấy vợ, vẫn cô bạn chờ đợi từ ngày đăng lính. Họ đã có hai đứa con gái. Cậu ấy tốt nghiệp bác sĩ, lại vừa đi tu nghiệp ở Pháp về. Còn Tối được giữ lại giảng dạy ở trường đại học. Ngành văn.
Cuối năm vừa rồi, họ quyết định rủ nhau trở lại miền Nam, thăm những vùng đất xưa họ đã đi qua một thời lửa đạn. Và đặc biệt, họ muốn tìm lại cái làng chiến khu có người con gái mà từ lâu, họ đã coi như người thân của trung đội.

Làng xóm đã thay đổi nhiều quá, phải mất non hai ngày đường, họ mới tìm tới được cái làng ngày xưa. Đây rồi, căn nhà có giếng nước to tròn, và vườn cây ngày ấy mặc võng. Ra đón họ là một phụ nữ tóc điểm hoa râm nhưng vẫn còn đọng nhiều nét xinh đẹp thuở thiếu nữ. Giữa gian nhà xây khang trang, dáng dấp một trụ sở làm việc nhiều hơn là nhà ở, tấm ảnh Nguyễn Quang Vinh được phóng to lồng trong khung kính trân trọng, tuyệt không thấy một dải băng đen. Nghĩa là, chị ấy chưa biết Vinh không còn nữa? Hay cũng có thể, chị không muốn nghĩ rằng anh ấy đã chết? Dẫu sao họ không thể biết, và không ai bảo ai, hai người tự thấy phải tôn trọng những điều mà người phụ nữ này ước muốn. Chi chỉ lên tấm ảnh Vinh, chưa kịp hỏi, 
thiếu phụ đã lên tiếng, vô tư và vui vẻ: “Chồng tôi đấy. Ảnh đi xa, chưa về!”
 Không biết như thế có là tàn nhẫn không, hai người đồng đội im lặng trong niềm xúc động trào dâng. Và họ quyết định không nói ra sự thật đau đớn về người chồng thân yêu của chị.

Họ ở chơi tới trưa, và được biết chị là phó bí thư và kiêm chủ tịch xã. Hai người được tiếp đãi nồng hậu hơn khi chủ nhà biết rằng họ cũng là những người lính vượt Trường Sơn năm ấy.
Cuối cùng, họ xin phép được ra giếng tắm. CáI giếng đã gắn bó một mối tình thủy chung, sắt son mà chỉ mình họ biết. Hai người lặng lẽ, trầm ngâm bên thành giếng. Và kìa, lạ chưa, dưới đáy nước trong suốt, một điểm sáng lấp lánh trồi lên. và từ đó, những hạt bọt nước li ti cứ nổi lên, liên tiếp, không ngừng.
Nước giếng long lanh. Và trên khóe mắt hai người đồng đội, hai cựu chiến binh cũng long lanh ướt.





































CÁT TRẮNG


Cô còn nhớ rất rõ đêm hôm ấy, khi anh tung cát đứng dậy, cát dưới chân anh bay lên mù mịt. Lửa lân tinh dưới biển toé sáng. Sóng ầm ầm xô vào bờ cát sôi sục. Đầu đằng kia, Cảm cũng đang nhảy qua những xác chết, đường lê sáng loáng như một làn chớp phóng thẳng vào lưng những thằng giặc bỏ chạy xuống sát mé nước. 

Truyện ngắn . NGUYỄN TRÍ HUÂN


      Đạo không thể nhớ được một cách rõ ràng anh đã hấp tấp đi khỏi cái bệnh xá nhỏ và hẹp ấy như thế nào. Dường như lúc chia tay với anh, mọi người đều nhìn anh bằng một đôi mắt trách móc. Điều đó phải cho đến lúc này, khi đã ra đến cửa rừng Đạo mới mường tượng nhận thấy, và tự nhiên những cái nhìn trách móc ấy cứ xoáy mãi vào tâm can Đạo.

Đạo cảm thấy khó chịu với chính mình. "Mày đã cư xử chả ra làm sao!". Đạo thở dài, lòng bỗng day dứt và cũng phải đến tận lúc đó, anh mới hiểu hết mình đã gắn bó với cái bệnh xá nhỏ ấy như thế nào. Hơn hai tháng trước đây, Đạo buộc phải vào viện với một khuôn mặt khổ sở và suốt trong khoảng thời gian dài dặc đó, Đạo cứ giữ nguyên một khuôn mặt khổ sở như thế. Vốn là một người hiếu động, Đạo có thể chịu đựng được mọi sự giày vò của vết thương nhưng không sao chịu nổi sự giày vò của nỗi nhớ. Vì thế, khi được ra viện, Đạo đã hấp tấp chạy như đi trốn, đến nỗi anh quên chào cả mấy đồng chí hộ lý trong bệnh viện. Mấy tháng trời qua, Đạo luôn luôn nhớ biển, nhớ cái tiếng sóng nôn nao thúc vào mạn thuyền, nhiều lúc tưởng không thể nào chịu đựng thêm được nữa. Bây giờ thì nỗi vui háo hức được về với biển lắng đi, Đạo lại bồi hồi nhớ bệnh xá, nhớ những cơn đau vật vã của cậu Lâm và giọng nói van nài, tha thiết của cậu Hải: "Lâm ơi, tao thương mày lắm! Mày đừng van nữa. Chị y tá đến rồi kia. Đừng làm cho chị ấy khổ!".

Bất giác, Đạo khẽ rờ tay lên vết sẹo trên cổ. Vết sẹo như có lửa nóng bỏng. Anh vội rụt tay lại gượng nhẹ cài nút áo rồi đi như chạy lên đỉnh một ngọn đồi chi chít hố đạn đại bác và đạn cối 106 ly 7.

Một luồng gió bất ngờ ào đến thổi rạp những bụi lau thưa thớt còn lại trên đỉnh đồi, biển đột ngột hiện ra trước mắt Đạo xanh thẳm, vô tận. Đạo đứng ngây người. Tự dưng nước mắt muốn trào ra. Ở rất xa mà Đạo tưởng như nghe rõ tiếng sóng đang ào ạt tiến vào bờ vừa hùng dũng, vừa uy nghi và kih đã trào lên bờ cát rồi, sóng nằm xoài ra đắm đuối trên những dấu chân người...

Quê hương Đạo không có biển. Anh sinh ra ở một làng cát ven dòng sông Đáy. Quanh năm nước sông đục ngầu, chở đầy phù sa cuồn cuộn đổ ra biển. Dọc hai bên bờ sông, từng dãy lò nung thủy tinh đắp bằng đất sét lúc nào cũng hừng hực những lửa...

Đạo gặp biển từ lâu. Sóng và gió đã thổi chất mặn của muối biển tràn ngập khắp cơ thể Đạo, nhưng mãi cho tới trận đánh ở Sa Thạch vừa rồi, biển mới thực sự trở thành nỗi nhớ của anh. Lần ấy, Đạo bị thương nặng và một ông già cùng với một cô gái - con của ông - đã giấu anh dưới ván thuyền, đưa anh tránh càn trên khắp những vùng biển dày đặc tàu giặc. Những ngày ấy nếu không có tiếng sóng thì buồn biết bao. Sóng đã kể cho anh nghe về những mùa cá hố, những mùa cá chuồn, về đời sống phóng đãng, dũng cảm của những người dân biển trước những con sóng dữ...

Đạo sửa lại chiếc dây lưng, lúng túng như bị một người trông thấy sự xúc động vụng về của mình, Đạo chạy lao xuống dốc, luống cuống và rạo rực. Biển thấp dần rồi khuất hẳn sau những hàng cây lớn rất nhanh dưới chân đồi. Đạo về đến đầu làng Sa Thạch lúc mặt trời gần lặn. Làng như vừa qua một cuộc càn nên không khí rất im ắng. Trên con đường trục chạy vòng vèo giữa làng, những dấu giày đinh còn in chồng chéo lên nhau hỗn độn. Một vài người lánh càn về muộn, đòn gánh nghiến trên vai trèo trẹo. Có tiếng trẻ khóc, tiếng gắt và tiếng gàu múc nước ở một chiếc giếng cạn. Sóng biển ầm ào sau những hàng dừa đã hết trái, xơ xác.

Đạo tạt vào một ngôi nhà gần đấy.

- Chào thím! Giặc hắn vừa mới càn sao vầy thím? - Đạo hỏi khi thấy một người đàn bà ngồi xây lưng ra ngoài đang nhặt những hạt lúa vãi tung toé trên cát một cách kiên nhẫn.

Người đàn bà không quay lại, trả lời giọng bực dọc:

- Còn chi nữa. Quân bất nhơn vậy đó. Đến cái quần đàn bà cũng không từ!

Trong bếp lửa cháy bập bùng, một người con gái ngồi day mặt ra nhìn Đạo.

- Ủa, anh Đạo! - Cô gái chợt kêu lên thảng thốt làm người đàn bà cũng vội vã quay lại.

- "Hương!" - Đạo khe khẽ gọi như biết bao nhiêu lần an thầm gọi tên cô. Người Đạo rùng lên còn cô gái thì đứng khựng nơi ngưỡng cửa, ngó Đạo trân trân. Lửa bếp cháy lan ra ngoài nổ lép bép, khô khát.

- Sao Hương lại ở đây? Bác đâu?

- Cha em đi biển. Nhà hắn đốt trọi rồi. Anh bỏ ba lô xuống đi chớ. Thím Tư, anh Đạo mà con đã kể cho thím nghe hồi hôm đó.

- Con nhỏ nó cứ nhắc hoài, tao cứ ngỡ thằng Cảm. Chú mạnh thiệt chưa?

- Dạ, mạnh - Đạo đã trở lại trạng thái thoải mái, tự chủ. Anh cởi ba lô trong lúc Hương luýnh quýnh chạy vào ấn lại củi vào bếp. Bà thím thôi không nhặt những hạt lúa trên cát nữa. Bà dong dả chạy ra ngoài. Chắc là đi kiếm thức ăn. Đạo biết nhưng không giữ.

- Giặc hắn càn có đông không Hương? Đưa rau đây anh nhặt cho.

- Một đại đội. Hắn ngủ ngoài cồn cát. Sáng vô, chiều về. Ba em ổng nhắc anh miết.

- Ba nhắc hay Hương nhắc?

Cô gái đỏ mặt. Cái nhìn làm Đạo cúi xuống. Một cảm giác lạ, đột ngột chạy như một đợt sóng rân rân trong cơ thể.
Lát sau Đạo đi ra biển. Gió và sóng như ùa vào ngực anh. Đạo rạo rực, ngây ngất và thật lạ, có lúc anh lại cảm thấy biển như ở phía sau mình, ở xung quanh mình, còn anh đang đứng trên một con thuyền, sóng cứ mềm mại luồn qua, luồn lại dưới đáy con thuyền đó.

Một loạt súng chợt rộ lên ngoài cồn cát làm những cảm giác ấy của Đạo mất đi. Người Đạo bỗng chuyển sang một trạng thái khác. Anh trở lại nhà giữa lúc Hương đã dọn xong bữa ăn. Bà thím lại ngồi nhặt từng hạt lúa trên cát một cách kiên nhẫn.

- Du kích xã đóng ở đâu Hương? Này, bọn bảo an chúng nó có mấy chục đứa tất cả?

- Anh hỏi làm chi vậy? Lát em sẽ dẫn qua bên thôn đội. Giờ phải ăn cơm đã. Coi bộ anh đói hung rồi đó!

Nói xong cô gái cười. Đôi mắt sâu thẳm như màu nước biển lúc chiều tối. Không hiểu sao, mỗi lần bắt gặp cái nhìn của Hương, Đạo lại liên tưởng đến cái màu xanh sâu thẳm, chói chang của biển.

Chợt nhìn thấy vết sẹo đo đỏ ló ra trên cổ áo Đạo, lòng cô gái se lại. Những kỷ niệm lại phập phồng trong ngực cô. Ngày ấy anh cứ bảo em là Biển, còn em thì lại sợ. Nếu không vì vết thương của anh, em đâu dám đi trên những con sóng đó. Ăn cá đi anh, sao cứ dựng đũa hoài. Đừng làm em mắc cỡ như hồi hôm nữa...

Ngoài xa, ở cuối hàng dừa, sóng biển vẫn ầm ầm bào lên bờ cát nồng nhiệt và dữ dội.

Cô gái bới lại mái tóc, khuôn mặt trái xoan hơi nghiêng nghiêng về phía Đạo.

- Anh và anh Cảm ra thuyền trước đi. Ba em ổng đang đợi đó!

Đạo kiểm tra cây tiểu liên một lần cuối, lên đạn, khóa chốt an toàn rồi cùng với Cảm, một du kích có nụ cười bẽn lẽn, đi về phía biển.

Họ đi thành một hàng, cô gái vừa đi vừa nghịch ngợm nhặt những vỏ sò đủ màu lấp lánh trên cát tung về phía trước. Sương biển bốc lên mờ mịt. Những đợt sóng dồn dập như phả những giọt sương ấy vào mặt họ.

Đêm qua, Hương đã dẫn Đạo đi gặp đồng chí chính trị viên thôn đội. Cô gái đưa anh đi lòng vòng khắp làng rồi dẫn anh ra trước biển.

- Thôn đội trưởng đó. Ở đây không có chính trị viên.

Cô gái mỉm cười tinh nghịch, khuôn mặt trái xoan hơi nghiêng nghiêng, tiếng cười của cô thoảng tan trong không khí mát lành của đêm biển.

- Ủa, hồi hôm chính anh đặt tên cho đồng chí đó thôi. Có việc chi mà gấp dữ vậy anh?

Đạo sững người. Anh không ngờ thôn đội trưởng lại chính là cô gái. Ngày Đạo bị thương, Hương còn là một cô nữ sinh trung học nhút nhát. Cô sợ biển và sau mỗi lần thay băng cho Đạo, cô lại lén bỏ ra mũi thuyền thút thít khóc. Hương nói cô chính thức thôi học và xin vô nhập đội du kích thôn sau ngày đưa Đạo về bệnh xá non một tuần lễ.

Hai người đứng nói chuyện được một lát thì Cảm đến. Họ kéo nhau đi về phía cửa biển. Trước mặt, cồn cát nổi lên lập loè với những đống lửa đốt vung vãi. "Chắc bọn chúng nó đang nấu ăn" - Đạo lẩm bẩm. Anh chợt quay lại. Một ý nghĩ bất ngờ loé lên sáng rực như một tia chớp. Đạo nắm lấy cánh tay của Cảm, giọng anh run lên sôi nổi: "Thế vầy, được không? Bọn mình sẽ lót trong cát một ngày, đêm tung cát dậy mà đánh, chắc gọn"...

Từ ngoài xa, những cồn sóng lân tinh trong suốt cứ lừng lững ập vào bờ, rồi lại hối hả rút lui, rồi lại sầm sập xô tới. Ba người ngồi ở sát mé nước, mắt dòm ra phía cửa biển lặng lẽ quan sát và sáng nay, họ cùng xuống một chiếc thuyền do bác Tám, cha cô gái chở ra cồn cát.

- Xuống khéo không té. Tôi tưởng chú quên biển rồi chớ!

- Quên sao được bác, con trông về hoài thôi!

Chiếc xuồng nổ máy, biển như phẳng lặng hơn. Sương tan dần và cái màu xanh vô cùng, vô tận ấy chả mấy chốc đã lại vây bọc xung quanh Đạo. Cô gái ngồi rất thấp trong khoang thuyền. Đạo và Cảm nằm lẫn vào đống lưới bao giờ cũng chiếm một khoảng lớn. Lòng Đạo háo hức, anh tưởng tượng đến lúc ba người tung cát bật dậy đánh vỗ mặt vào bọn giặc. Chuyện cứ y như trong tiểu thuyết trinh thám vậy. Đạo mỉm cười khi nhớ đến gương mặt ngơ ngác, bẽn lẽn của Cảm: "Nếu chúng nó nhóm lửa nấu ăn ngay trên bụng mình thì biết tính cách sao!".

Đạo là một chiến sĩ trẻ. Anh ham mê đánh giặc hơn bất kể một công việc nào khác. Thấy giặc, Đạo không thể ngồi yên được. Những chuyện hành hung, cướp giật của chúng lại càng làm cho lòng ham mê đó của anh hừng hực lên như lửa cháy. Đạo mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Bố anh chết giữa một cơn say điên đảo. Những kỷ niệm mà Đạo còn giữ được về bố vẫn là những cơn say tàn nhẫn ấy. Hồi đó, Đạo chỉ thấy sợ, thấy ghét mà không hiểu trong cuộc đời quá ngắn ngủi của bố mình chứa chất một nỗi khổ u uất không sao giải thoát nổi. Bố anh đã từng đi lính cho Pháp rồi bỏ trốn về trong một cơn say điên dại. Từ đó ông cụ luôn luôn tự giày vò, hành hạ mình cho đến chết. Mãi sau này khi Đạo nhận ra được những tâm sự day dứt của bố thì ông không còn nữa. Lúc bấy giờ Đạo mới thấy thương bố xót xa. Sau khi bố Đạo mất được ít lâu thì Đạo mất mẹ. Anh còn nhớ đêm hôm ấy, có một người đàn ông cao lớn, vai khoác một chiếc tay nải vải nâu đã cũ tìm đến nhà Đạo lúc sao tua rua gần lặn. Mẹ Đạo vội vã trở dậy. Hai người đi được nửa giờ thì chó rộ lên ở bãi cát bên kia sông. Con đò cũng bị bắn nát, ván thuyền trôi giạt trên những ngọn sóng đục ngầu, sôi réo lên ở hai bên bờ cát...

Từ đó, Đạo bắt đầu một thời kỳ lang thang trên khắp các bãi sông của bọn chủ thầu trong vùng. Ngày này nối ngày khác, anh gò lưng kéo những xe bò cát nặng nề đổ vào những lò nung thủy tinh đỏ ngòm những lửa. Nhiều khi Đạo đứng mê mẩn hàng giờ nhìn những người thợ lấy ra từ cửa lò từng khối thủy tinh lỏng trong suốt. Đạo bị cuốn hút vào công việc đó.
Đạo mơ ước trở thành một người thợ đúc thủy tinh. Sau này khi đã là một sinh viên khoa thổ nhưỡng học, ước mơ ấy vẫn lấp lánh trong những dự định lớn lao của anh. Nhưng cũng giống nhiều người bạn khác cùng lứa tuổi, Đạo luôn cảm thấy lòng mình như có một điều gì đó chưa yên. Bấy giờ, chiến tranh đã lan ra cả nước. Những chiếc máy bay Mỹ hôm nào cũng ầm ầm lao qua bầu trời thành phố. Tiếng bom đã chấn động đến mọi ngõ ngách của cuộc sống. Vào một buổi chiều mùa hạ, Đạo về làng. Anh đi lang thang trên những khu ruộng cát, dưới vầng mặt trời lúc nào cũng đỏ cháy lên gay gắt. Đạo chui vào hầu hết các lò thủy tinh, để rồi sáng hôm sau, anh lặng lẽ từ biệt dòng sông, từ biệt những triền cát, nơi mẹ anh đã chết như cái chết của một chiến sĩ. Ngày ra đi, Đạo đã tâm niệm rằng, sẽ không còn kỷ niệm nào sâu nặng hơn, tha thiết hơn những kỷ niệm về mẹ, về dòng sông quê hương nữa. Nhưng Đạo đã lầm. Ba năm ở chiến trường của anh là ba năm dày đặc kỷ niệm. Đạo lại gặp những dòng sông, những triền cát. Từ những dòng sông, những triền cát ấy, anh đã lao vào những cơn xoáy lốc của những trận đánh dữ dội. Đạo hoạt động nhiều năm ở vùng ven biển này và có lẽ chính cái sóng gió hung hãn, không hề biết khoan dung đó của biển đã tạo cho anh một lối đánh hiểm hóc, táo bạo. Với lối đánh ấy Đạo đã gieo những nỗi kinh hoàng cho bọn giặc trong khắp khu vực đơn vị anh hoạt động.

Có lần ở trụ sở xã Mỹ Hoài, giữa lúc bọn hội đồng xã cùng với bọn bình định đang chuẩn bị bước vào bữa tiệc khởi đầu cho chiến dịch "bình định trắng" của chúng thì Đạo cùng với một du kích khác bất ngờ bật ra từ một chiếc tủ đứng kê ở góc nhà. Khẩu tiểu liên rung lên trong đôi bàn tay của anh. Lần khác, Đạo đóng vai một đại uý an ninh ngụy, cùng với ba chiến sĩ khác, bận đồ lính thản nhiên vượt qua mấy tầng lính gác vào thẳng phòng làm việc của tên thiếu tá quận trưởng quận Bồng Đức. Không may, một đồng chí đi cùng để lộ nòng khẩu tiểu liên sau chiếc áo khoác. Biết bị lộ Đạo vụt đứng dậy, đưa tay chộp lấy chiếc đài "sô-ni" để trên bàn, ném vỡ mặt tên quận trưởng, xách cặp tài liệu mật của nó rồi lại ung dung thoát ra bằng lối cửa chính...

Sau lần bị đơn vị Đạo giả làm đoàn lái buôn đánh cho tơi tả ở xóm ba Sa Thạch, bọn bảo an không dám nghỉ trong làng nữa. Chúng ngủ đêm ở cồn cát ngoài cửa biển. Sáng ra chia thành nhiều mũi thọc vào đất liền, bắt đầu một ngày cướp đoạt, chém giết. Buổi chiều chúng lại hợp điểm ở bãi cát, xách ôm theo những của đã vơ vét được lên thuyền kéo về đồn.

- Hôm qua bọn cướp lại đốt thêm hai ngôi nhà nữa. Gà vịt trong làng chúng cũng bắt đi hết trọi. Làng không còn tiếng gà như nằm ngủ miết anh Đạo hè?

Cảm nói khẽ khẽ, Đạo nghe tiếng được, tiếng mất. Hai người vội nằm rạp xuống kéo lưới phủ kín mình khi có tiếng xuồng máy vang lên ở phía trước. Ba chiếc thuyền chở hai trung đội địch đang chậm chạp vào bờ. Lúc đi ngang qua thuyền bác Tám, một thằng hỏi như quát:

- Đi biển sớm dữ vậy, ông già?

- Có đi sớm mới có cá cho mấy thầy nhậu chớ!

Bác Tám trả lời trong tiếng máy nổ phành phạch. Mùi xăng tỏa ra nồng nặc. Khi bọn giặc đi khỏi, bác Tám bẻ lái hướng mũi thuyền về phía cồn cát. Nắng sớm đổ đầy trong khoang thuyền.

Đêm ấy những người dân Sa Thạch không ngủ. Trời vừa mới ập xuống, người ta đã kéo nhau ra bãi biển lặng lẽ ngồi đợi. Trước mắt họ, những con thuyền, mũi hướng về phía cồn cát cũng dềnh lên, dềnh xuống trầm tĩnh và trang trọng. Biển im lìm, giấu kín những con sóng dữ. Vài du kích không nén được đi đi lại lại. Bóng người, bóng súng in đậm nét lên vạch sáng của đường chân trời. Cứ thế cho đến ba giờ sáng.

Đột nhiên, một ánh chớp lựu đạn loé lên ngoài cồn cát. Tiếng nổ vừa dội lại đã bị chìm lấp bởi hàng loạt những tiếng súng nổ khác, bởi tiếng sóng. Chớp loè loè từng đám như phụt lên từ mặt biển. Rồi tiếng AK nổ. Đường đạn bắn găm, đỏ rực. Lâu lắm mới nghe tiếng đại liên địch phản ứng từng loạt ngắn rời rạc, khắc khoải. "Vầy là ngon rồi". Một người nào đó bất chợt kêu lên, giọng run run và lạnh. Những người khác thở trút ra và đều cảm thấy luống cuống. Trong một khoảnh khắc, không ai nhớ mình đang ở đâu nữa.

Nhưng cũng chỉ mươi phút sau đó, từ rất xa ngoài cửa biển, từ những căn cứ nằm sâu trong đất liền, pháo địch bắt đầu hộc lên. Đường đạn réo xoèn xoẹt qua đầu mọi người trùm xuống cồn cát những quầng lửa sáng rựng. Đèn pháo treo dọc cửa biển. Ánh đèn túa ra cháy xèo xèo, kéo theo một cái đuôi khói rớt chầm chậm xuống mặt nước.

Không ai bảo ai, tất cả mọi người cùng chạy ào xuống thuyền một lúc. Súng lựu đạn, mác va chạm lích kích. Những chiếc thuyền nổ máy chồm lên. Mũi thuyền đè sóng vùn vụt lao về phía cửa biển.

Trời cũng vừa rạng.

Mới đó mà đã nửa năm trời trôi qua. Cuộc sống thanh bình như một người đi vắng lâu ngày đột ngột trở về làng với vẻ mặt vừa bỡ ngỡ vừa quen thuộc. Người ta đổ xô ra bãi biển vào những buổi chiều, mắt dõi tìm trên sóng những thuyền cá và khi bắt gặp cồn cát đang sừng sững như một con tàu, lòng mọi người lại dịu xuống yên tĩnh và mặt biển như cũng bớt mênh mông hơn.

Đạo đã nằm lại trên đỉnh cồn cát ấy. Những người đi biển đêm kể rằng, đêm đêm họ vẫn thấy anh bồng súng đứng gác trên đỉnh cồn, người sáng lên lấp lánh như màu cát biển. Có người bảo anh đã biến thành một loài chim làm tổ trong cát, suốt ngày chao lượn trên sóng gọi báo cho những thuyền lưới biết vùng biển nào nhiều cá hố, cá chuồn... Đôi khi họ còn cam kết rằng, nhiều buổi sớm ra cồn, họ đều bắt gặp những dấu dép cao su mới nguyên, cát trên cồn còn in rõ vết nước của một người vừa mới bước lên từ dưới biển...
Đạo lặng lẽ ra đi và một cuộc đời mới của anh lại được bắt đầu bằng những truyền thuyết dân dã. Trong một cuốn sổ còn lại của anh, trang cuối cùng có ghi mấy dòng chữ vắn tắt: "Cát biển Sa Thạch - hàm lượng si-líc - Nhà máy kính - công suất...".

Đó là những điều duy nhất mà anh còn để lại. Ngoài Hương ra, không một ai hiểu được những dòng chữ sơ lược ghi trong cuốn sổ tay ấy. Nhưng có một điều mà mọi người thấy rất rõ là anh yêu vùng biển này, và để ghi công đức của anh, Đảng bộ và nhân dân Sa Thạch đã xây một bia mộ trên đỉnh cồn với những dòng chữ cũng rất vắn tắt, sơ lược: "Liệt sĩ... sinh ngày... mất ngày... tại cửa biển Sa Thạch".

Không một ai biết thêm gì về cuôc đời của anh cả.

Vào những đêm trăng, cát trên cồn sáng lên như một bầu trời với vô số những vì sao nhỏ, lóng lánh. Những đêm như thế, Hương và trung đội du kích của cô thường đi dạo trên bãi biển. Cô gái thôi không nhặt vỏ sò như ngày nào nữa. Vỏ sò không làm cho nỗi nhớ của cô nguôi được. Cô còn nhớ rất rõ đêm hôm ấy, khi anh tung cát đứng dậy, cát dưới chân anh bay lên mù mịt. Lửa lân tinh dưới biển toé sáng. Sóng ầm ầm xô vào bờ cát sôi sục. Đầu đằng kia, Cảm cũng đang nhảy qua những xác chết, đường lê sáng loáng như một làn chớp phóng thẳng vào lưng những thằng giặc bỏ chạy xuống sát mé nước. Vào những giây phút chót của trận đánh, Đạo bị thương ở ngực. Khi Hương dìu được anh lên đỉnh cồn thì pháo đất, pháo hạm đã chụp đạn xuống dày đặc. Trong những tiếng nổ hỗn loạn của kim loại, Hương thấy Đạo khe khẽ gọi và lúc cô cúi xuống, khuôn mặt của anh chỉ còn lại một nụ cười...

Sau này, mỗi lần nhớ tới cái đêm kỳ lạ ấy, Hương lại không sao quên được nụ cười của Đạo. Nụ cười đã làm cho lòng cô than thản. Theo ý muốn cuối cùng của anh, mọi người đành để anh nằm lại trên đỉnh cồn. Nhiều đêm biển động, Hương lo lắng bồn chồn. Hai cha con cô lục đục trở dậy đi vội ra bãi biển. Những đêm như thế cô không sao ngủ được.

Rồi kẻ thù trở lại làng cô với những khuôn mặt quỷ quyệt hơn. Những mùa cá lại bị bỏ qua. Pháo bắn suốt ngày trên cửa biển, trên đỉnh cồn. Khắp làng không còn một ngôi nhà nào nguyên vẹn. Đội du kích của cô rút vào hoạt động bí mật. Những trận đánh lại diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Làng biển Sa Thạch lúc nào cũng như có lửa.

Cuộc sống cứ thế căng thẳng và kéo dài cho tới một ngày kia, khí trời trở nên oi bức. Mây đùn lên ở ngoài xa tầng tầng. Những con sóng trăn trở vỗ vào bờ. Nhìn bọt biển phơn phớt một màu tím, người dân biển biết sắp có bão lớn và người ta thấp thỏm chờ đợi cũng căng thẳng và ngột ngạt như trước một trận đánh lớn. Cuối cùng cơn bão ấy đã đến. Suốt đêm, sóng biển gầm thét quật vào bờ bức thiết, giận dữ. Gió gào rú trên những khung cửa ngỏ. Vườn dừa quật ngã. Sấm nổ rung đất và chớp chạy từng luồng sáng rực trên biển.

Hương và trung đội du kích của cô bất ngờ tập kích diệt gọn một đại đội lính chủ lực ngụy chính trong cái đêm bão táp đó. Khắp nơi, tiếng súng vũ trang khởi nghĩa cùng nổ dậy đồng loạt. Hàng ngàn, hàng vạn người kéo về bức rút quận lỵ Tam Sa. Cờ, dáo mác dựng rợp trời. Những trung đoàn chủ lực từ căn cứ địa cũng bắt đầu tràn xuống đồng bằng, đạp hết cứ điểm này đến cứ điểm khác.

Đó là những ngày vui nhất của quê hương cô. Cô cảm thấy tự hào mỗi khi nghĩ về Đạo. Chưa bao giờ làng biển của cô có một cơn bão lớn như thế, một trận đánh lớn như thế.

Vài ngày sau bão tan. Biển lặng dần. Một màu xanh mềm mại tha thiết lại hiện lên. Làng biển nát tươm, xơ xác. Không ai buồn vì mọi người đều biết rằng, một mùa cá chật chội khoang thuyền sẽ trở về với họ. Người ta lại cuồn cuộn đổ ra bãi biển với một tâm trạng mới mẻ, khác thường. Đột nhiên, có tiếng kêu thất thanh của một cô bé:

- Cồn cát trôi mất rồi! Má ơi, mộ anh Đạo...

Kinh hoàng, người ta chạy ào ào về phía cửa biển. Lòng người nào cũng nhói lên, ngơ ngác. Chỗ cồn cát chỉ còn là một khoảng biển xanh thẳm, vô tận. Hương cúi xuống bốc lên tay mình một nắm cát. Vậy mà cô vẫn nghĩ, không còn ai có thể gắn bó với làng, với biển hơn cô nữa. Cô nhớ tới một dòng sông quanh năm đỏ ngầu phù sa. Anh đã sinh ra bên một dòng sông như thế. Cô hình dung ra những dãy lò thủy tinh với hình dáng của những người thợ đang rút ra từ lửa những khối thủy tinh trong suốt như nước biển...

Buổi chiều hôm đó, những thuyền lướt từ ngoài khơi trở về, thuyền nào cũng đầy ắp cá. Biển lại hiền hòa, sóng từng đợt trào lên bờ cát rồi nằm xoài ra đắm đuối trên những dấu chân người...

Người dân Sa Thạch còn kể thêm rằng, chưa có năm nào biển được mùa cá như sau cơn động biển, động trời năm ấy.
Bình Định xuân 1973

 N.T.H
















NGÀY KHÔNG BÌNH THƯỜNG


Minh đẹp một cách yếu ớt, Bạo đẹp một cách khỏe khoắn và tháo vát. Ðó là một đôi bạn rất thân và cũng rất hay giận nhau. Thế quái nào Minh lại yêu anh đại đội trưởng pháo, to và đen nhẻm. Bạo lại yêu anh chàng sinh viên có phần yếu đuối, lịch sự và kiểu cách. Anh sinh viên ấy cùng tuổi với Bạo. Bạo rất bực với cách xưng hô "tôi" trong mỗi lá thư của anh ta gửi đến. Nhưng đó chỉ là nhược điểm nhỏ thoáng qua. Bạo vẫn yêu anh ta nhiệt tình và say đắm. 
Truyện ngắn . PHẠM HOA

 

Trời đã sắp sáng. Bạo biết thế vì cô đã thức được một lúc lâu. Ðêm qua, Bạo bồn chồn như đứa trẻ ngủ trong đêm ba mươi Tết, chỉ thấp thỏm mong trời mau sáng. Một loạt bom xa xa làm cô chợt tỉnh. Từ lúc đó, Bạo không nhắm mắt được nữa. Cô nằm im một lát mới nhỏm dậy. Căn nhà hầm tối, đen như trong hộp, râm ran tiếng ngáy của đồng đội. Cô rón rén bước ra cửa. 

Bên ngoài, trời sáng lờ mờ mát lạnh. Bạo cảm thấy tỉnh táo và khỏe khoắn. Một cảm xúc háo hức là lạ. Cô muốn chạy vù ra sân. Muốn gọi tất cả mọi người dậy. Bạo dừng lại ngắm những giọt sương đang từ từ tròn hạt. Lúc quay vào nấu cơm ăn sáng, cô đụng đổ cây đèn, rồi lại đụng đổ cả chiếc xoong đựng nước uống trên bàn. Cô phì cười vì sự vô ý của mình. 

Sạp nằm có tiếng cựa mình. Chị Thành quát: 

- Ðứa nào đấy? 

Bạo bịt miệng cười: 

- Em đây. 

Một lát sau, ở góc hầm có ánh lửa cháy bập bùng. Không riêng gì Bạo, ngay sau đó các cô gái khác đều trở dậy cả. Mới năm giờ sáng, họ dậy sớm hơn mọi khi. Căn nhà hầm nhộn nhịp, chứa đựng vẻ khác thường. 

Ðó là một buổi sớm của ngày hai mươi - Ngày không bình thường của tiểu đội thông tin trên đèo Văng Mu, điểm chốt của điểm cao trên một ngàn mét. Là ngày vui của các cô gái. Hôm nay họ sẽ nhận được thư nhà, thư bè bạn, thư người yêu. Mỗi một tháng họ được nhận thư một lần vào ngày hai mươi. Thư gửi đến sẽ dồn về ban chỉ huy đại đội, cơ quan đóng cách họ những mười lăm cây số dưới thung lũng. Dưới đó, anh liên lạc sẽ dần bóc thư của từng người một đọc dõng dạc qua máy điện thoại. Họ không còn cách nào tốt hơn. Chính năm cô gái trên Văng Mu yêu cầu đại đội làm như vậy. Nếu không chờ thư đến tay các cô lại chậm thêm vài chục ngày nữa. Những lần đầu, bao nhiêu bí mật gia đình, bí mật tình yêu bị bóc trần như ban ngày, các cô rất ngượng. Lại có thêm vài anh tủm tỉm cười, chế nhạo, các cô la lối lên. Ðại đội trưởng phải ra lệnh cấm không được ai bén mảng lên nhà đại đội khi cậu liên lạc đọc thư vào máy. Tất cả quen dần thành nếp sống bình thường của năm chiến sĩ thông tin trên điểm cao. Từ đó, ngày hai mươi trở nên gần gũi thân thiết, là ngày mong chờ của các chiến sĩ. Một ngày vui thực sự, ngày họ được hòa nhập vào đời sống hằng ngày của những người thân ở phương xa. Ðó là ngày thiêng liêng và đặc biệt quan trọng đối với những người đang yêu như Bạo. Nhất là chỗ ở của các cô gái lại chót vót trên cao một ngày hàng chục trận bom giội xuống, thiên nhiên lại tàn khốc, là nơi bom đạn ác liệt, là nơi mà nhiều bạn bè không quen biết... 

Bạo vẫn hí húi nấu cơm trong góc hầm. Cô mặc chiếc áo mỏng không có tay, mặt đỏ rực lên vì nóng. Sáng nay Bạo có vẻ bận rộn và vụng về. Ðánh đổ đèn, đánh đổ xoong là Bạo. Bỏ quên hộp thịt đã mở dưới đất cho kiến vào cũng là Bạo. Chốc chốc lại thấy chị Thành hỏi vọng vào: 

- Ðứa nào đổ nước ra cửa hầm tràn cả vào nhà đây? 

Bạo chạy ra cửa xem, tủm tỉm cười: 

- Em. 

- Lại em. Ðãng trí quá em ạ. 

Trong hầm, các cô gái vội vã thu dọn những đống dây điện, đống cuốc, xẻng vào góc. Căn hầm sáng sủa và rộng rãi hơn. Một điều lạ nữa là hôm nay: không ai bảo ai, các cô đều chải tóc soi gương tỉ mỉ như trong ngày sẽ có khách đến chơi. 

Tiểu đội có Minh là nhỏ nhắn, thanh mảnh được coi là đẹp gái nhất. Minh rất hay tỉa tót làm dáng, nhưng cô vẫn thầm ghen với nước da đỏ thau của Bạo. Minh đẹp một cách yếu ớt, Bạo đẹp một cách khỏe khoắn và tháo vát. Ðó là một đôi bạn rất thân và cũng rất hay giận nhau. Thế quái nào Minh lại yêu anh đại đội trưởng pháo, to và đen nhẻm. Bạo lại yêu anh chàng sinh viên có phần yếu đuối, lịch sự và kiểu cách. Anh sinh viên ấy cùng tuổi với Bạo. Bạo rất bực với cách xưng hô "tôi" trong mỗi lá thư của anh ta gửi đến. Nhưng đó chỉ là nhược điểm nhỏ thoáng qua. Bạo vẫn yêu anh ta nhiệt tình và say đắm. 

Cả tiểu đội có năm chị em. Chị Thành không giống các cô. Chị cao và nhỏ người, nắng chiến trường làm nước da chị đen sạm và khắc khổ. Chị hơn các cô một tuổi. ý thức làm chị của Thành rất rõ. Các cô gái ở đây đều rất nể và sợ Thành. Có lẽ chỉ có Bạo là người dám nói đùa với chị. Thành cũng rất mến Bạo. Mặc dù Bạo có ngang tàng đôi chút, nhưng lại dũng cảm, việc phá mìn vướng, cả đại đội không ai giỏi hơn Bạo. 

Bạo bê nồi cơm nóng hổi đặt ra tảng đá. Cùng lúc đó, chiếc máy điện thoại đặt trên bàn nứa rung lên bần bật. Một hồi chuông dài và gắt. Thành dẹp sổ theo dõi công việc sang bên, chạy tới cầm máy. "Hồng Hà đâu...". Một giọng đàn ông ồm ồm cộc lốc của ông trung đoàn trưởng pháo. Ông nói một câu ngắn của người quen ra mệnh lệnh: 

- Khu vực dê sáu tám (D68) bị mìn vướng, đứt toàn bộ dây. Yêu cầu sáng nay phải nối cho họ trực chiến. 

Thành buông máy nhẩm tính toán luôn. Chị có thói quen sắp xếp công việc ngay sau khi nhận điện. Tổng số dây điện khu vực tiểu đoàn pháo vị chi là hai ki-lô-mét. Vừa phá mìn vướng vừa rải dây, nối dây, mất đứt hai người một ngày vất vả. Sau đó chị giục mọi người đi ăn cơm. Trong đầu Thành thoáng linh cảm thấy rằng: công việc hôm nay sẽ rối mù lên cho mà xem. Nắng đẹp thế này, nhất định nó sẽ đánh mạnh. 

Năm người con gái ngồi xúm quanh chiếc bàn ăn nhỏ. Chiếc ghế buộc bằng ba đoạn nứa võng xuống phát ra tiếng kêu kẽo kẹt. Minh sốt sắng nhất. Nhỏ người nhưng rất nhanh. Ba cô cướp được ba cái bát lành. Bát của chị Thành tất nhiên là không cô nào dám tranh. Còn lại là chiếc bát thủng trôn vì bom bi. Bạo phải dọn bếp núc nên chậm chân ra sau. Cô cầm chiếc bát hỏng lên, nhất định không chịu thua. 

- Hôm nay đến lượt đứa nào ăn bát thủng ! 

- Cái Minh. 

- ứ! Hôm qua em ăn bát thủng rồi. 

- Mới có buổi chiều. Phải cả sáng nay nữa mới đủ một ngày. 

- Không. 

- Này. 

- Không. 

- Này. 

Giằng nhau một lúc, Bạo cười: 

- Thế mày gọi tao là chị tao nhường cho. 

- Thì chị. Nào chị Bạo ơi! 

- Dạ đi. 

- Dạ. Ðược chưa. 

- Ðược. Em ngoan ăn cơm rồi đi phá mìn cho giỏi nhé. Chị cưng, chị thương. 
Bạo còn đáo để vuốt đầu Minh mấy cái, chị Thành giục, họ mới bắt đầu bưng bát. Miếng cơm vừa trôi khỏi miệng, lại có điện thoại. Lần này là điện dưới đại đội công binh gọi lên. Ðường dây từ đơn vị gọi lên sở chỉ huy sư đoàn tiền phương bị đứt. Một giờ đêm qua ở dưới đó có một quả bom nổ chậm bất chợt nổ. 

Bữa ăn lại được tiếp tục. Vẫn cái đà vui vẻ một cách khác thường ấy, Bạo dọa sẽ mách tay đại đội trưởng pháo là Minh ghẻ ruồi. Bao giờ Minh cũng yếu lý lẽ hơn. Cô chỉ còn biết chê cái tên của Bạo, cái tên thô như một người lên gân. Ai lại Quang Bạo, Minh Bạo hay là Thành Bạo dù sao nghe vẫn vương vướng. Cái tên này phải hình dung ra một cô gái to béo gân guốc, đáo để... 

Một loạt bom. Rồi một loạt nữa. Ba loạt cả thảy. Cả hầm lắc mạnh như sắp vỡ đôi. Sau đó là tiếng phản lực sà rất thấp, có cảm giác như các ngọn cây cũng bị gió quật tung. Các cô gái nhìn nhau, đoán: 

- Chắc ở cây số mười. 

- Không! Cây số mười bốn. 

- Có khi sát chân đèo. 

Họ còn đang xác định vị trí bom rơi thì có điện. Từ lúc đó, điện gọi tới tấp lên tổ chốt thông tin. Ðơn vị nào cũng la ầm lên đường dây liên lạc của họ bị đứt. Các cô gái phải ăn cơm nhanh hơn. Thành hết nhận điện của đơn vị này lại cắm phích nghe đơn vị khác. Anh nào cũng to mồm đòi phải nối dây ngay tức khắc, Thành phát bẳn lên, quát vào máy: 

- Từ từ đã nào. Làm gì mà các ông hét ầm lên như thế? Phải hiểu cho người ta chứ. 

Thành buông máy sững sờ giây lát. Chị giắt lại mấy sợi tóc vương trên má, nhẩm tính. Dê sáu tám hai người. Ðại đội công binh một người buổi sớm, buổi chiều lên sư đoàn bộ. Xuống lèn đá một người. Rồi chị tặc lưỡi thầm nghĩ: bận mấy cũng chẳng bằng đêm hôm kia. Ba lần B.52 ném bom luôn xuống đèo. Quả nổ, quả không. Vừa rải dây, nối dây mất một ngày một đêm mới xong. Cùng lắm chỉ bằng hôm đó chứ mấy? Các cô gái đã biết trước tình thế. Họ đứng dậy sau bữa ăn. Cô nào cũng trong tư thế sẵn sàng. Có cô đã đội mũ sắt, khoác súng vào người. 

Chị Thành và miếng cơm cuối cùng rồi đứng dậy nốt... Chị phân công việc luôn. Năm người đều ra mặt đường cả. Bạo và chị sẽ xuống Dê sáu tám. Khi đi mang theo dụng cụ phá mìn vướng. 

Thoắt một cái họ đã đứng ở ngã ba rẽ đi các hướng. Họ vội vã chia tay nhau. Ðến chỗ ngoặt, Minh vẫn còn ấm ức với Bạo. Cô giơ nắm tay nhỏ xíu lên dọa: 

- Tối nay, nối dây về sớm "ông" nhận thư của mi qua điện thoại cho coi, "ông" sẽ nhận là Bạo. 

Bạo cười to: 

- Thách Minh đấy! Thách đấy! 

Bạo khoác tấm lá chắn cao ngang đầu đi trước. Tấm lá chắn là vật che mảnh đạn hình tam giác, được kết bằng những nùn rơm to và chắc như bắp tay. Dụng cụ phá mìn còn có cây sào dài bảy tám mét, có chạc dùng để quơ những sợi dây mìn vướng nhỏ như sợi tóc. Loại mìn vướng này rất nhạy và rất hiểm độc. Một cơn gió thoảng qua cũng có thể làm cho mìn nổ. Hai người còn luồn qua sào phá mìn một cuộn dây điện nặng chục cân. 

Bạo là cô gái siêng năng và chăm chỉ. Khi yêu, tình yêu của cô cũng rất mạnh mẽ. Trong tâm hồn cô gái trẻ này có một khoảng rộng yên tĩnh, đằm thắm và thiết tha dành cho người mình yêu. Vốn sinh ra trên đồng đất trồng màu ven sông Hồng, Bạo rất chân thật và hơi vụng về. Gần như cô không biết viết thư, không biết nói những câu hoa hòe hoa sói. ở giữa điểm cao như vùi mình trong bom đạn, đời sống đơn giản đi nhiều lắm. Công việc bình thường ở đây là ăn ngủ, phá mìn và nối dây điện. Không hề có thứ công việc nào xen lẫn, không khái niệm thứ bảy, chủ nhật. Không có một giờ rảnh rỗi. Vậy mà trong mỗi lá thư bao giờ Bạo cũng mở đề bằng câu: "Hôm nay nhân tiện ngày chủ nhật" hay "Hôm nay nhân tiện trời mưa..."; có hôm cái Minh vớ được mẩu thư viết dở, nó tò mò xem rồi đọc toáng lên. Bạo đứng đực ra nhìn, mặt đỏ gay, một lúc mới biết chạy tới giằng miếng giấy lại. Thế mà Bạo còn làm thơ gửi cho anh sinh viên rất giỏi chữ nghĩa. Ðại khái cũng câu ba câu bảy gập ghềnh như đá dưới lòng suối cạn: 

Bèo hợp lại tan 

Hoa nở rồi tàn 

Nhưng tình yêu giữa đôi ta không đứt 

Như sợi dây em nối đêm ngày... 

"Tìm bảy ngày cũng không thấy vần" - Vẫn cái Minh ranh mãnh nó vớ được, đọc xong nó nói như vậy. Từ đó, mỗi lúc hậm hực điều gì muốn trả thù, Minh lại lấy giọng ê a ngâm: 

"Bèo hợp rồi lại tan..." thế là đủ để Bạo toát mồ hôi, chịu thua. Mãi sau này Bạo phải mặc cả đổi chỗ nằm gần cửa hầm cho Minh, nó mới chịu quên cái đoạn thư khổ sở đó đi cho. 

Thế nào chiều nay Bạo cũng có thư. Cô tin rằng lá thư sẽ rất dài. Từ chiều hôm qua Bạo đã linh cảm như vậy. Niềm tin ấy làm Bạo bồn chồn thích thú. Cô vui khác ngày thường. Bạo cảm thấy mình yêu cuộc đời hơn, yêu mảnh đất chiến trường mà cô đang sống và yêu mọi người. Cô tự hứa từ nay cô sẽ dễ dãi hơn đối với Minh. Không kể chuyện ma con khỉ độc dọa nó nữa. Cô yêu cả con đường gập ghềnh này, cả những ngọn cây cỏ xanh này, cho đến con chim đang hót xa xa... 

Hai người đi sâu vào cánh rừng le tốt ngập đầu. ở đó lác đác có những cây cọ rừng mập mạp xanh tốt, lá vươn dài như lá dừa. Thỉnh thoảng mới thấy những cây khộc già nua đầu cành đang nứt những búp lá non tơ. Cho đến lúc nghe tiếng ho của một pháo thủ và con gà cục ta cục tác trong khẩu đội gần đó, thì họ dừng lại. Ðã đến khu vực mìn vướng nổ. Nhiều trái tự hủy, để lại một đám đất nát bét và một khoảng cây cối giập, gãy xơ xác. 

Chị Thành quan sát xung quanh rồi nhận xét: 

- Dây mìn đấy, Bạo ạ! Mắt thường mà cũng trông thấy một quả kia kìa! 

Bạo nhìn theo hướng bàn tay Thành. Một trái mìn mầu xám xù xì nấp dưới một cành cây nhỏ. Cô quạt bằng mũ sắt, tắc lưỡi: 

- Kệ nó chị ạ. Chọc một cái là nó nổ, sợ gì! 

Bạo nói rồi vẫn ung dung ghếch AK lên đùi, cầm mũ sắt quạt. Trời nóng. Trên đôi má đỏ chín của Bạo đã có mấy giọt mồ hôi. Khi đã buộc tóc lại thật gọn, xắn quần xắn tay áo, họ mới đứng dậy bắt đầu công việc. Bạo dựng lá chắn lên, chống thật chắc chắn. Cô ngồi thụp phía sau như một đứa trẻ đi trốn. Chị Thành đứng xa hơn làm nhiệm vụ rải dây. Bạo đưa sào lên phía trước. Cô chỉ cần vung sào, khuấy động cành cây ngọn cỏ, chạm vào bốn sợi dây vướng nổ là trái mìn sẽ nổ. Trái mìn đầu tiên Bạo phá hôm đó lại không phải là trái chị Thành trông thấy. Ðó là quả vùi sâu trong đống lá mục. Cô vừa tung sào bất thần đã có tiếng nổ. Bạo giật bắn người rồi lại cười khanh khách. Bụi chưa tan, cô đã dịch lá chắn về phía trước rồi giải lao một phút. Cô hỏi chị Thành. 

- Sinh viên đại học chắc họ sống sướng lắm chị Thành nhỉ? Ông bạn em ông ấy viết thư, em cảm thấy các ông ấy sang trọng lắm. Có đúng không chị? 

- Ðấy là em cảm giác thế. Họ cũng vất vả lắm. Họ ở một phòng mười hai người cơ đấy! 

Bạo lẩm bẩm: 

- Có thể là như vậy. 
Bạo lại thu mình sau tấm lá chắn. Cô đưa sào về phía trước. Trái mìn lần này gan góc hơn. Bạo phải quơ chục lần nó mới nổ. Tiếng nổ vẫn rất to làm Bạo giật nảy mình, cô đưa ống tay áo quệt mồ hôi trên mặt rồi quay về phía Thành nói chuyện tiếp. 

- Em có một miếng vải hoa rất đẹp. Em sẽ cắt một chiếc áo lót thật nghịch ngợm. Cổ theo kiểu trái tim xoay về vai trái. Hàng khuyết sẽ xẻ bên hông. 

Nói xong chưa kịp nghe Thành trả lời, cô lại ngồi thụp xuống, dịch tấm lá chắn về phía trước. Bạo phá mìn say mê tỉ mỉ và ung dung làm người khác đến phát thèm lên được. Ðó là cung cách phá mìn rất bình tĩnh, thông minh mà chị Thành cũng khâm phục. Công việc này rõ ràng không thể để một người vội vàng, hấp tấp làm được. 

- Ngày còn ở nhà ấy mà, cái "lão" người yêu của em bấy giờ còn nhỏ và yếu hơn em cơ. Có hôm đi chăn bò ngoài bãi sông Hồng, em dọa cho sợ, phải đuổi bò về cơ đấy. 

Thành cười: 

- Thật là đáo để. 

Thành cũng có biết qua người yêu của Bạo. Cái anh chàng quá trẻ ngồi vắt chân qua lan can thềm nhà chụp một kiểu ảnh rất điệu. Thành không chê gì anh ta. Chị chỉ thoáng ngờ vực trong lòng một điều, hình như Bạo sắc sảo hơn anh ta quá nhiều. Trong cuộc đời thực, liệu đôi trai gái này có sánh vai nhau được không? Bạo đã phá đến trái mìn thứ năm, thứ sáu... Họ đã trông thấy khẩu đội pháo xa xa. Rất lạ là hôm nay, Bạo không quen được với tiếng nổ. Mỗi một tiếng mìn dội lên Bạo vẫn giật nảy mình quay lại cười khanh khách. Chị Thành thấy Bạo có vẻ chủ quan quá, quát vọng lên: 

 

- Bạo! Chú ý vào. Coi chừng đấy! 

Bạo cười, đôi môi đỏ chót rất xinh. 

- Chị yên tâm. Một mình em đã phá hàng nghìn quả mìn rồi. 

Niềm vui ấy lan sang cả Thành. Phải, chị rất tin tưởng Bạo, nhưng điều ấy cũng có thể xảy ra lắm chứ? Công việc quen thuộc của Bạo là phá mìn, nhưng ai biết đâu được, bất cứ một sự chủ quan nào chẳng gây ra tai nạn? Phía trước kia, trong những bụi cây lòa xòa hiền lành, một ụ đất mấp mô, hay dưới đám lá mục, là những cái chết bất thần đang rình núp chờ đón; nhất là hôm nay Bạo lại có vẻ coi thường. Nghĩ như thế, tự nhiên Thành muốn ứa nước mắt. Chị yêu Bạo quá. Chị muốn đối xử dịu dàng với Bạo, muốn cho Bạo cái gì. Ðứng trước những người tốt người ta thường có những ý nghĩ trong lành hơn. Chị Thành đứng ngẩn người ra nhìn Bạo hồi lâu. Cô ấy vẫn cúi lom khom sau chiếc lá chắn. Và hễ cứ sau một trái mìn nổ, Bạo quay lại chuyện trò. Vẫn là dòng suy nghĩ sôi nổi của Bạo về bạn, về người yêu. Sau khi nói xong chẳng cần biết Thành có nghe hay không, cô lại quay về phía trước, dịch tấm lá chắn lên. 

Họ trở lại Văng Mu lúc sương mù đã kết thành từng cụm đặc sánh trên đầu. Bất ngờ lý thú là lúc đi cả tiểu đội chia tay nhau ở chỗ rẽ, lúc về lại gặp nhau đúng chỗ ấy. Ðủ mặt cả năm người, Bạo trông thấy từ xa Minh đi trước. Nó thất thểu vì đói và nhọc. 

Cứ sau một ngày lăn lộn ngoài đèo khuôn mặt đầy đặn của nó lại bị vơi đi một tí. Bạo vẫn tỉnh như không gọi rối rít: 

- Tớ cứ tưởng cậu về lâu rồi! 

- Thì người ta cũng tưởng đằng ấy về lâu rồi. 

- Tớ làm mà cứ nóng cả gan ruột. Chỉ sợ cậu về trước mệnh danh tớ, nhận thư. 

- Tớ mà về trước xem, chả phải bàn. 

- Thôi thôi các cô! Chóng lên. Còn khối việc phải làm ra đấy. 

Họ vào đến trước sân, chị Thành đã buộc xong hai chiếc tăng vào những gốc cây nhỏ. Những chiếc tăng xòe nặng buộc thõng xuống để hứng sương đêm lấy nước dùng. Mỗi đêm một tấm tăng rộng có thể hứng được một lít nước. Mười chiếc tăng hết đêm họ sẽ dồn được mười lít nước. Thứ nước kết tinh từ hơi sương trong ngăn ngắt. Trừ khi bom đánh gần, hơi sương qua khói thuốc đạn sẽ đắng ngắt như pha thuốc ký ninh. Các cô gái lần lượt căng những chiếc tăng ra đón nước. Sương dày làm ướt cả mặt, cả tóc. Khu đèo lạnh hẳn xuống vài độ. 

Tối hôm đó các cô gái ăn cơm rất nhanh chóng. Hầu như ai cũng vội, cũng mong cho đến cái giờ phút mong chờ ấy. Các cô không đùa ầm ĩ nữa. Cái Minh nhỏ bé lại còn tỏ ra chín chắn, nó nói: 

 

- Biết mình có thư không mà trông. Cái gì đến sẽ đến, cái gì không đến sẽ không đến. 

Bạo vạch mặt: 

- Rõ đồ nói khoác. Có thật không mong thư không? Thế thì cử cậu đi sửa đường dẫn lên sư bộ nhé. 

- Ứ, tớ cũng có mong. 

Bạo cười ha hả. Chưa đến sáu giờ tối, các cô đã xúm xít bên tảng đá. Ai cũng tỏ ra bình thản. Chỉ có Bạo vẫn xông xáo đứng trong cùng, là người cầm ống nghe máy điện thoại. Phải đến hai chục phút rồi, Bạo vẫn chưa liên lạc được với đại đội. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng sét nổ sàn sạt, rầm rầm trong máy điện thoại, cầm lấy ống nghe giật nẩy tay lên. 

Bạo sốt ruột gắt: 

- A-lô... Thăng Long đâu. Cắm dây cho chặt vào. 

Cuối cùng sự mong chờ của các cô gái đã được thỏa mãn. Tiếng cậu liên lạc rõ mồn một trong máy. Cậu ta bảo mọi người đều có thư, trừ chị Thành. Tất cả các cô thở phào một tiếng. Thư của Bạo được đọc trước. Mặt cô đỏ ửng lên, cô đứng vào nghe máy, nụ cười bỗng nở trên môi ngượng ngập. 

Mọi người chăm chú nhìn Bạo. Họ không được nghe đọc thư, nhưng tò mò muốn biết Bạo có tin lành hay dữ. Tin buồn hay vui. Bắt đầu mặt Bạo đỏ chín, nghe đọc thư, cứ thế cô tái dần đi. Một tay Bạo buông thõng xuống. Các cô ngạc nhiên sợ hãi nhìn Bạo. Giây phút căng thẳng ấy cũng chấm dứt khi Bạo chuyển ống điện thoại cho Minh. Mặt Bạo chợt đỏ bừng, mấy giọt nước mắt nóng hổi lăn rất nhanh qua má. Cô ấm ức dằn từng tiếng: 

- Hắn vẫn chẳng xưng anh với mình. Cóc cần! 

Các cô gái nhìn nhau rồi phá lên cười. Cứ thế lần lượt từng cô. Họ xếp hàng chờ đến lượt mình vào nghe cậu liên lạc đọc thư. Thời gian vẫn trôi. Ở Văng Mu, một tháng lại có một ngày không bình thường như vậy. Nhưng nói cho cùng, cái ngày ấy cũng chỉ là ngày bình thường trong suốt bốn năm trời dài đằng đẵng trên điểm cao Văng Mu của những người lính.










































CHIỀU VÔ DANH


Tôi còn sống? Sống ngơ ngác giữa bãi chiến trường ngổn ngang bao nhiêu đồng đội đời đời im lặng! Tại sao kẻ may lạ là tôi? Nếu tất cả những kẻ hay do dự và sĩ diện hão như tôi đều sống sót cả thì cuộc đời mới vô duyên làm sao? Ờ, tại sao kẻ thù lại bắn tồi đến thế? Tôi cũng xông lên, cũng phơi mình lù lù trên bãi trống kia mà! Sao tôi không dính một viên đạn? Ôi, Thời, mày thiêng lắm! Bom đạn tránh người mà! Nhưng mày đâu biết nó tránh những ai? 

Truyện ngắn . HOÀNG DÂN

 

Nhìn vợ tôi tất bật với bữa ăn tươi chiều nay, tôi nghĩ: “Đàn bà các vị chúa là hay cầu toàn! Cần quái gì phải chẻ hành chẻ ớt cho mất thì giờ? Tống vào dạ dày thì còn đẹp cái nỗi gì?”. Nghĩ vậy, nhưng tôi chỉ mỉm cười, không dám nói ra thành lời.

Thằng Long, con trai tôi hỏi:

- Bố cười cái gì thế?

Tôi ôm nó vào lòng, thủng thẳng:

- Bố buồn cười vì mẹ con chiều bố con mình quá thành ra phải đợi món “mầm đá” khí lâu.

Vợ tôi lườm:

- Người đâu mà háu đói hơn cả trẻ con!

Tôi cười:

- Biết làm sao được! Đời lính đã rèn cho anh thói quen phải ăn nhanh, chạy nhanh và hôn cũng nhanh nốt.

Thằng Long cười khanh khách:

- Ê, bố nói bậy nhá!

Vợ tôi bê nồi sườn bung với dọc hà và nghệ vào, nói:

- Xong rồi! Anh vớt cho con mấy miếng sườn để nó gặm thịt.

Tôi loay hoay đảo ngoát vớt ra một bát sườn đầy, những miếng sườn giẻ quạ ninh nhừ nom đã thấy ngon. Thằng Long vừa thổi phù phù vừa gặm mút một cách thích thú. Nó nhai xương và nhã bã ra đầy một góc mâm. Vợ tôi cằn nhằn

- Con phải cho bã xương vào cái bát con kia kìa, không được nhả ra mâm.

Tôi gạt đi:

- Kệ nó, có khách khứa gì đâu mà ngại.

Đã đói thì chớ, vợ tôi lại chẳng chịu bớt một thao tác nào của cái quy trình ăn bún bung rất là rườm rà: gắp bún vào bát, trần nước sôi, rắc hành và rau thơm, chan nước sườn bung...

Tôi sốt ruột, gắt khẽ:

- Thôi đưa đây, anh làm lấy cũng được.!

Nhận bát bún nóng từ tay vợ, chưa kịp ăn, tôi chợt cảm thấy nôn nao lơm giọng. Tôi đặt bát bún xuống, nhắm mắt để cố trấn tĩnh lại, nhưng không thể nào chịu nổi cái cảm giác buồn nôn đang dâng lên cuồn cuộn. Người tôi ớn lạnh, ghê ghê như bị tái phát một cơn sốt rừng. Tôi cố gắng đứng dậy lảo đảo bước tới cái giường và nằm vật ra hổn hển.

Vợ tôi hốt hoảng quăng tuốt cả đũa với muôi, vội chạy ra đỡ tôi nằm xuống. Một bàn tay đặt lên ngực tôi, một bàn tay sờ trán tôi, vợ tôi run run:

- Anh làm sao thế?

Tôi nhắm nghiền mắt, khẽ nói:

- Em cứ ra ăn với con đi. Anh chỉ chóng mặt qua loa thôi. Chắc là anh bị thiếu máu não thật. Có lần bác sĩ đã bảo thế nhưng anh không tin.

Vợ tôi càng lo lắng hơn:

- Bệnh ấy có nguy hiểm không hả anh?

Tôi trả lời quấy quá:

- Nó cũng vớ vẩn như cảm cúm thôi mà!

Thằng Long chợt nheo nhéo gọi:

- Mẹ ơi, nhiều kiến đen quá. Nò bò đầy mâm đây nay!

Trời ơi! Kiến đen! Chính đám sinh vật li ti ấy đã khiến tôi suýt ngã gục trên bát bún bung. Chúng đang nhe răng gặm sồn sột trong óc tôi...

Vợ tôi tất tả trở lại mâm và kêu lên:

- Trời ơi, sao con nhã bã xương lung tung ra cả sàn thế này? Tại con nên kiến mới bò vào nhiều đến thế đấy.

Thằng Long cãi:

- Ứ phải tại con. Tại nhà mình nhiều kiến thì có.

Thằng Long nói đúng. Nhà tôi ở trên một gò đất nên ai cũng bảo nhà tôi là thiên đường của các loài kiến. Tôi đã từng tưới dầu hoả, rắc thuốc diệt kiến mà xem ra chẳng ăn thua gì. Có lần tôi đã xoắn cả mớ giấy để đốt chúng, nhưng không xuể. Không thể nào tiêu diệt nổi đám sinh vật quái quỷ ấy. Mà hễ nhìn thấy chúng là tôi như bị dị ứng và buồn nôn.

Để khỏi phụ công vợ đã mất cả buổi chiều cho một bữa ăn tươi, tôi bèn vùng dậy, hùng dũng bước ra mâm và ngồi xuống:

- Nào, bố con mình tiếp tục đi!

Nhưng rồi, đầu óc tôi bỗng loé sáng những chùm đèn dù ma quái, lơ lửng... Tiếng bom nổ. Tiếng đạn rít. Tiếng gào thét của những người đã chết. Một mớ âm thanh ầm ầm náo động trong tâm tưởng tôi. Tôi chỉ còn nhìn thấy hàng triệu con kiến đen đang xâu xé những mẩu xương thịt của đồng đội tôi trong cái buổi chiều ảm đạm ấy. Tôi bỗng nhớ lại tất cả những gì mà tôi đã cố quên đi.
Trường Sơn, những chiều mưa rấm rứt. Những cánh rừng đại ngàn âm u, ẩm ướt. Vắt rào rào quăng mình trên lá mục vừa bén hơi người.

Tôi ì ạch bám sát đội hình hành quân. Đầu chúi xuống hai vai tê bại, đầm đìa mồ hôi, ớn lạnh. Dù đã độn lót khá kỹ, những cành đạn cối 60 ly vẫn cứ thản nhiên và vào lưng tôi đau thon thót.

Một tiếng chửi bật lên khe khẽ: “Tổ cha...”. Tôi ngẩng đầu lên. Vũ đang quài tay ra phía sau sờ mó cái ba lô vuông nhầy nhợt mỡ. Chết cha rồi! Cái thùng mỡ 10 ký đã bục vỡ trong ba lô. Mỡ nhểu giọt xuống lá rừng. Mỡ chảy theo lưng áo, ống quần và luồn qua gót chân, chui vào mặt dép đúc, trơn tuột. Vũ hơi cúi người, lột dép cầm tay và lại chửi: “Tổ cha bay!”.

Tôi buồn cười, nhưng không cười nổi. Mệt quá. Chỉ khẽ nhếch mép. Phải nói Vũ là thằng tốt nết nhất tiểu đội. Chỉ có nó mới chịu đeo cái “của nợ” ấy trên lưng mà đi ròng ròng ngày này qua tháng khác. Mồ hôi trộn vào mỡ khét mù. Lúc nào cũng nhớp nháp ngứa ngay. Có môt đêm, trong lúc đang mò mẫm lao người xuống một cái dốc đứng, Vũ túm phải một cây nứa tép dập, cây nứa cứa lòng bàn tay vũ tướp máu. Máu, mỡ, mồ hôi quyện vào nhau lầy nhầy. Nghĩ mà sởn gai gà!

Vũ lầm lũi bước đi trước mặt tôi. Cái thằng chân đi vòng kiềng mà khoẻ và lì số một. Hắn là con dân chài nòi vùng biển Nghệ An mà! Ôi chiến tranh kỳ diệu. Con người sinh ra và lớn lên trong bão tố biển khơi bỗng nhiên nhảy lên rừng sâu núi thẳm để tải bộ thế này? Tôi chợt nghĩ đến Thời. Hắn là một gã lính ba trợn ba trạo. Có thói quen nói mà không bao giờ thèm để ý đến người nghe. Những ngày đầu sống với hắn, tôi cứ chờn chờn ghê ghê. Người đâu mà băm bổ, thô lỗ?

Có lệnh tạm dừng, triển khai đào hầm, dựng lán. Tôi thở phào. Sẽ được xả hơi vài ba ngày đây. Không ai bảo au, tất cả đều nặng nề thả người đánh phịch xuống đất, xoạc rộng hai chân, ngả người vào chiếc ba lô và lim dim đôi mắt. Không ít chàng lính đã ngoẹo đầu ngủ rũ. Tôi cũng thèm ngủ kinh khủng. Đầu óc cứ mê mụ, bồng bềnh... Bỗng tôi giật thót. Một cái bàn chải sắt nào đó đang chà sát lên má tôi. Tôi tỉnh hẳn. Thời! Chính hắn! Hắn đang nhăn nhở cười. Dù biết hắn chính gốc Khâm Thiên – Hà Nội, tôi vẫn cứ ngờ ngợ. Hắn có bộ râu tua tủa rất đàn ông. Hắn không giấu giếm niềm tự hào về bộ râu rễ tre ấy. Hắn thường cao giọng kể đi kể lại mối tình đầu của mình. Hắn bảo sau mấy đêm đi chơi với bé (hắn gọi người yêu là “bé”), hắn hỏi: “Em có biết anh yêu em từ bao giờ không?” Bé đáp: “Chưa thấy!”. Thế là hắn lia râu túi bụi vào mặt bé. Hắn bảo bé cứ sướng rên lên... Mỗi lần kể xong, hắn lại cười khùng khục: “Cái hôn không râu như cà phê không đường!” Chẳng hiểu sao, các chiến hữu nghe mãi cái chuyện vặt ấy mà không chán? Ngược lại, hễ hắn dứt lời là tất cả ôm bụng cười ngả nghiêng, ngặt nghẽo, cười đau quặn thắt cả ruột gan. Đứa thì tung hô Thời là “lãnh tụ của ái tình”. Đứa lại gọi hắn là nhà “Ma sát thịt”. Còn tôi thì buột mồm gọi nôm là “Thời râu!” Xem ra Thời có vẻ ưng ý với cái tên của tôi hơn cả. Hắn chộp ngực tôi, day thật lực và hùng hồn tuyên bố: “Thời... râu! Được đấy. Vừa nho nhã, vừa đời và cũng rất...đực! Ô hô! ông Nghĩa thánh thật!...”

Vừa nói Thời vừa làm động tác nhún nhảy. A! Tôi thoáng bối rối, nhưng kịp trấn tĩnh ngay. Cái phản xạ đầu tiên của người lính mà tôi cũng quên phắt đi mất. Đi thì thôi, hễ dừng là phải đào hầm, cưa cây.

Tôi vừa ngật ngưỡng kéo cưa vừa lơ mơ ngủ và rồi lăn ra đất lúc nào không hay. Thời hì hục cắt gỗ một mình. Sau khi bó gỗ thành hai ccọ to, Thời mới đánh thức tôi dậy. Tất nhiên vẫn là bằng... bộ râu!

Hắn cất giọng khàn khàn:

- Về thôi!

Dứt lời, hắn xốc vác gỗ to tướng lên vai và lắc lư bước đi như con gấu. Tôi nhìn theo và thèm khát một sức vóc cường tráng như hắn. Hắn khoẻ phát sợ. Hai bên nách kẹp hai bao gạo 50 ký, hắn có thể ung dung bước đi như kẻ nhàn tản dạo mát. Dạ dày hắn có sức chứa bảy lần vục đầy cơm bằng loại bát B.52 và cao hứng lên, có thể tráng miệng thêm hai phong lương khô nữa. Hắn ăn như hùm, nhưng làm khoẻ như voi nên mọi người đều vui vẻ nhường nhịn hắn và hắn cũng sẵn lòng gánh vác giúp anh em những công việc nặng nhọc. Cái sức lực hơn người của hắn còn được chính hắn oang oang tô vẽ không chút ngượng ngùng rằng: “Mẹ kiếp! Đêm nào tao cũng mơ thấy bé. Và đêm nào tao cũng đánh mất một thằng Thời con. Biết đâu trong đám những thằng Thời con chưa kịp làm người ấy, chẳng có đứa sẽ là thi sĩ. Hô hố...”

Sau khi đào xong hầm thì tất cả đều mệt lử. Tôi cảm thấy cơ thể rệu rã, miệng đắng ngắt, mắt nảy đom đóm. Vẫn còn một việc nữa là lấp đất, Thời thở dốc, tì ngực vào cái cán xẻng, lầu lầu:

- Mẹ kiếp! Toàn nhữmg việc nặng nhọc, khốn khổ. Thằng lính mà phải làm cả thợ sơn tràng, thợ đấu, ngựa thồ... thì đến đá cũng phải xỉu, nói đếch đến người!

Nhìn đôi mắt đỏ ngầu đờ đẫn của Thời, tôi biết hắn đang phải vật lộn với con đói ngủ dữ dội lắm. Tôi giằng cái xẻng trong tay hắn, bảo:

- Ngủ đi! Giờ thì đến lượt tao làm việc chứ.

Có lẽ chỉ đợi thế, Thời đổ vật xuống đất, ngáy luôn. Bộ râu lem nhem đất và đầy những cọng lá khô quăn queo rung lên đều đều sao mà ngon lành?

Vừa phủ xong đất lên nóc hầm, chưa kịp chui vào ngồi thở thì có lệnh hành quân gấp. Cha mẹ ơi! Nước sông công lính. Chúng tôi lần ngược trở  lại co đường vừa mới đi hôm trước. Nghe đâu địch đã đánh hơi thấy một cuộc di chuyển lớn của binh đoàn. Tôi lắng nghe tiếng rên “eo...u u” dai dẳng của thằng OV-10 và buột mồm hỏi một câu bầng quơ:

- Chẳng lẽ nó ở tít trên cao kia mà cũng nhòm thấy cái thùng mỡ trên lưng Vũ khoèo hay sao?
Chiến dịch lớn đã bắt đầu. Nó cuốn những người lính vào một cơn lốc chóng mặt. Nó thổi bay những ý nghĩ vụn vặt từng đeo bám trong đầu, nhưng cũng thổi bùng lên một nỗi khát thèm được sống tưởng đã bị vùi lấp trong vô vần những biến cố, những sự kiện chồng chéo lên nhau xô bồ, hỗn tạp.

Sống - đó là niềm hy vọng mỏng manh của những người lính trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào, nhưng dường như càng mỏng manh nó càng hối thúc người lính phải suy nghĩ về nó một cách nghiêm chỉnh.

Chúng tôi hối hả hành quân giữa các làng quê và đô thị. Những bàn chân quen bước thấp bước cao trong rừng, nay nện gót trên mặt đường nhựa phẳng lỳ cứ tức anh ách. Máu tụ lại, da phồng rộp, vỡ toét, bỏng rát lên tận óc. Vừa đi vừa chạy vừa chạy vừa thở và xuýt xoa đau đớn. Dừng chân là nổ súng. Nổ súng xong lại chạy xuốt đêm ngày. Chiến tranh kết thúc đến nơi rồi. Mộtc cuộc chiến dù dài lâu đến đấu vẫn có ngày kết thúc! Và sẽ có một viên đạn cuối cùng dành cho một người lính cuối cùng ngã xuống trước giờ phút khải hoàn.

Chúng tôi đi suốt đêm và dừng lại ở một trảng cát. Phía sau lưng là một cánh rừng cao su bạt ngàn. Còn trước mặt là căn cứ địch rộng tám kilômet vuông. Đó là mục tiêu phải đánh chiếm của đơn vị chúng tôi.

Một tổ ba người moi một cái hố chiến đấu. Tôi, Vũ và Thời cũng âm thầm đánh vật với cát. Tiếng lưỡi xẻng bập vào cát sột sẹ. Tiếng thở nặng nhọc, gấp gáp. Những chùm pháo sáng của địch lơ lửng trên bầu trời, thứ ánh sáng lạnh lẽo ma quái. Thỉnh thoảng, một loạt đạn lửa từ trong căn cứ địch vọt lên bầu trời, loằng ngoằng những đốm lửa ma trơi.

Đang moi sâu dưới hố, Thời bỗng nhảy phắt lên, thở hồng hộc. Tôi ghé sát vào hắn, thì thào:

- Sao thế?

Thời lia cái cằm bàn chông vào má tôi, giọng rin rít:

-         Xương! Xương người!

Tôi và Vũ ngớ ra. Thời lẩm bẩm:

- Dép đúc, dây lưng...

Vũ buột miệng, lào thào:

- Quân ta à?

Tôi lẳng lặng lấy ra tấm ni lông màu cỏ úa và trải rộng trên cát. Thời nhảy xuống hố. Hắn thận trọng moi dần từng cái xương vùi trong cát ướt đưa lên cho chúng tôi. Tôi và Vỹ loay hoay xếp đặt. Tất cả là ba bộ hài cốt. Một tổ ba người bị bom vùi từ bao giờ? Chắc là từ hồi F9 trừng trị sư đoàn “Tia chớp nhiệt đới” của bọn Mỹ. Ngày ấy, bị địch giội bom rải thảm, nã pháo cực nhanh và dùng hàng đàn xe tăng bọc kín sau lưng, các chiến sĩ F9 đã quyết tử trên mảnh đất đẫm máu này. Mai sau, chẳng biết có ai đến đây để cắm một tấm bia với dòng chữ: “Nơi yên nghỉ của hàng trăm liệt sĩ vô danh thuộc sư đoàn 9 – QGPMN”? Thời chống hai tay vào mép hố, nhảy lên. Hắn vừa buộc túm tấm ni lông thành một bọc trông lởm khởm vừa thì thầm:

- Dám thưa hương hồn các anh. Bọn em gồm ba đứa là Thời râu, Vũ khoèo và Nghĩa thư sinh trói gà không nổi...

Nghe Thời khấn khứa, tôi chạnh lòng. Khoé mắt cay cay. Vũ cũng xúc động lắm. Hắn dụi nhanh mắt vào tay áo. Còn Thời khấn xong thì ngồi xổm, bần thần. Bộ râu bê bết cát ướt của hắn như dài ra, tua tủa, rung rung. Lát sai hắn chỉ tay xuống hố, giọng khàn đục:

- Phải mai táng theo nghi lễ nhà binh!

Tôi và Vũ còn đang ngơ ngác chưa hiểu ý định của Thời thì hắn đã gắt khẽ:

- Mỗi thằng nộp ba viên đạn AK thay cho ba loạt súng bắn vĩnh biệt.

Thời đặt cái bọc xuống đáy hố, xếp chín viên đạn thành một hàng ngay ngắn bên cạnh cái bọc và nhảy lên.

Sau khi lấp đầy cát vào hố, Thời bảo:

- Ngày mai, đứa nào còn sống phải nhớ đánh dấu ngôi mộ này. Nếu quên thì thằng Thời râu mang trọng tội lừa dối các linh hồn chết, hiểu chưa?

Chúng tôi hì hục moi cát đào một cái hố khác. Vừa buông xẻng thì pháo binh ta cũng khai hoả.

 

*   

Hàng nghìn quả đại bác và hàng chục phi đạn ĐKB gầm rít vang trời. Không gian như vỡ toác và rùng rùng chuyển động. Cùng lúc, các cỡ súng của địch cũng thi nhau khạc đạn. Cả một vùng trời đất bị nung nóng ngùn ngụt lửa khói. Không thể phân biệt nổi tiếng nổ của súng ta và súng địch. Chỉ còn một mớ âm thanh hỗn độn ù ù như xay lúa, chát chúa như muôn vàn cặp đe búa gõ đập loạn xạ bên mang tai.

Nép sát vào nhau dưới hai làn hoả lực khủng khiếp, chúng tôi tưởng như ngạt thở trong trạng thái cảm xúc đầy mâu thuẫn. Chợt thấy sung sướng là vì được chứng kiến đoạn kết ngoạn mục của một cuộc chiến tranh kéo dài ba thế hệ. Lại thoắt run bởi thấm thía nỗi sợ hãi xon người. Chao ôi, những ngày thiếu đói triền miên của cuộc đời sinh viên, những cơn nguy khốn cùng cực giữa vòng vây kẻ thù, những lời khen chê vô bổ, những soi mói đố kỵ tầm thường của người đời... Tất cả, phỏng có nghĩa lý gì khi chỉ lát nữa thôi, có thể sẽ bị vùi sâu dưới cát? Vào khoảnh khắc yếu đuối nhất của bản năng con người khi phải đối mặt với tử thần, tôi bất giác nhìn sang Thời. Hắn nghiến răng trèo trẹo, quai hàm bạnh ra, những sợi râu đen bóng dựng đứng lên như con nhím xù lông. Nhưng, không hiểu sao, tôi thấy hắn rất đẹp. Một vẻ đẹp ngạo nghễ gai góc, hình như hắn bất cần? Và vì thế, có lễ hắn không có những phút yếu đuối như tôi? Tôi bỗng nôn nao thèm khát có được phẩm chất liều lĩnh như hắn. Tôi bị thuyết phục trước vẻ đẹp ngang tành, dữ dằn của Thời. Tôi ôm lấy hắn. Khác với mọi lần, bộ râu của hắn không hề gây cảm giác khó chịu, mà hình như những sợi râu cắm vào da thịt tôi khiến tôi có thêm sức mạng, giúp tôi can đảm hơn! Đột nhiên, Thời quàng tay riết chặt cả tôi và Vũ. Tôi nghe rõ nhịp đập không bình thường của cả ba con tim. Thời nói. Lần đầu tiên, tôi được nghe hắn noi bằng một giọng run run, ngập ngừng:

- Nếu còn sống, chúng mày phải ra Hà Nội. Tao có hai đứa em gái...

Hoả lực của ta đột ngột chuyển làn, bắn sâu vào căn cứ địch. đó là hiệu lệnh mở cửa. Đại đội chủ công chúng tôi bắt đầu phần việc của mình.

Người thứ nhất ôm bộc phá lao lên. Một tiếng nổ rung chuyển trận địa. Cát bụi, mẩu dây thép gai, ống bơ... bay lên tung toé.

Dường như địch cũng nín thở, căng tai căng mắt chờ đợi cái biến cố sinh tử này?
Cửa mở chìm trong lưới đạn dày đặc của kẻ thù. Chớp lửa loang loáng chói mắt. Tiếng nổ rền rĩ vô tận. Cát bị quyện vào khói lửa vón cục thành từng cây nấm xám khổng lồ từ từ bay lên không trung, tản ra, che kín cả một góc trời vần vũ...

Con số thương vong tăng lên chóng mặt. Hầu hết các cán bộ trung đội, tiểu đội đã hy sinh. Đồng đội của chúng tôi lần lượt gục ngã ở các hàng rào vòng ngoài. Vẫm còn hai hàng rào dây thép gai nữa.

Chính trị viên trưởng Toán rướn cổ thét to, giọng khản đặc:

- Đồng chí Hào dẫn bộ đội lên mở cửa!

- Rõ ... o õ!

Lát sau đã thấy hai người trườn ngang qua mép hố của chúng tôi. Đó là Bê phó Hào và chiến sĩ Bình. Hào động viên Bình:

- Bình tĩnh nhé! Ôm chặt bộc phá, chuẩn bị lao lên áp sát mục tiêu.

Bình ngẩng mặt lên, lý nhí: “Rõ!”. Bỗng “hự” một tiếng, Bình ngoẹo đầu sang bên phải. Một viên đạn xuyên qua trán Bình. Máu và óc trắng phun ra xối xả. Hào giật khối bộc phá trong tay Bình, đứng bật dậy, vọt lên. Nhưng cả một băng tiểu liên cực nhanh AR15 của địch đã hất anh ngã ngửa. Đầu Hào thõng xuống vai Thời. Thời nâng gáy Hào, vuốt mắt cho anh. Thời xoay xác Hào nằm dọc theo mép hố, lẩm bẩm: “Thế là toi một cây tiếu lâm!”. Những sợi râu dựng đứng của Thời chợt giãn ra nom dễ sợ.

Chiến sĩ  Ngọ từ phía sau bò lên, tiếp tục công việc dang dở của Bình và Hào. Ngọ bị trúng đạn vào chân nhưng vẫn cố lết lên. Chúng tôi dán mắt vào Ngọ. Hai mươi thước. Mười thước. Năm thước... Một vồng lửa tròn lăn tới và trong nháy mắt đã nuốt chửng Ngọ. Súng phun lửa! Thời chửi toáng lên: “Đ. mẹ! Chúng nó xịt súng phun lửa!”... Nhưng, Ngọ vùng đứng đậy. Toàn thân Ngọ rừng rực như một bó đuốc. Bó đuốc khét lẹt ấy lừng lững tiến về phía hàng rào. Một tiếng nổ kinh thiên động địa. Thịt xương người chiến sĩ bị hút vào cây nấm xám khổng lồ, bay lên trời và tan biến trong khoảng không mờ mờ, vô định.

Thắng, cậu liên lạc đại đội chạy ào đến chỗ chúng tôi như một cơn lốc. Thắng nằm sấp, hổn hển:

- Các anh trong Ban chỉ huy đại đội bị thương và hy sinh ba người rồi. Chỉ còn chính trị viên phó Huấn. Cấp trên chi viện xe tăng. Anh Huấn bảo anh Nghĩa cử người ra rừng cao su dẫn xe tăng vào vị trí chiến đấu. Hết!

Truyền xong lệnh, Thắng chồm dậy và lao vụt đi. Tôi bật lên tiếng kêu thảng thốt. Những con rắn lửa loằng ngoằng đang quấn lấy người Thắng. Chúng nó đổ đạn vào một mục tiêu trần trụi trên mặt đất. Trời ơi! Thắng còn trẻ quá. Chưa đầy mười tám tuổi và mới suýt soát ba mươi sáu ký!

Thời thở dài:

- Tôi và ông phải đi bộ đội và đi bộ đội là phải. Còn nó? Ai bắt nó tống gạch đá vào túi quần. Ai bắt nó khai gian ngày sinh tháng đẻ?

Đến lượt tôi thở dài. Thời nhăn nhó:

- Ông đa cảm bỏ mẹ. Sao không ở nhà mà làm thơ? Thôi, xin chào!

Dứt lời, Thời đứng dậy sửa lại bao đạn chuẩn bị vọt lên khỏi hố. Tôi vội vàng:

- Không! Việc này của tao.

Thời nheo mắt nhìn tôi. Những sợi râu của hắn giật giật như thể có một bàn tay vô hình nào đó đang túm những chân râu kéo tụt vào trong da. Tôi hiểu, đó là dấu hiệu của sự điên khùng. Mặc! Tôi vụt đứng dạy. Vũ cũng lập tức đứng dậy. Tôi ấn vai hai chiến hữu:

- Ngồi xuống! Nó xơi gọn cả tổ bây giờ!

Vừa kịp thụt xuống thì “oành”, một quả đạn cối 81 ly rơi sát mép hố. Oành! Oành! Oành... Mảnh cối rít lên lạnh gáy. Cát bụi trút ào ào xuống đầu khiến chúng tôi tối tăm mặt mũi. Thời khạc nhổ ầm ầm và văng ra một câu chửi rất tục.

Cối địch bắn lui dần về phía sau lưng chúng tôi. Hình như chúng muốn ngăn chặn quân ta ở trong rừng cao su?

Bỗng “xoẹt – rầm – oành! Oành oành oành...” Những tiếng nổ loạn xạ đã nuốt chửng tiếng gào thét của Thời. Chúng tôi đều ôm đầu, nhắm mắt. Chúng nã pháo 155ly. Những quả đạn réo lên như xé màng nhĩ và nổ từng chuỗi như bom chùm. Thời lắc đầu rũ đất cát, rác rưởi đầy tóc đầy râu, gào lên:

Nghe đây! Sau này chúng mày chịu khó lang thang khắp 36 phố phường Hà Nội tìm “bé” cho tao. Còn bây giờ, tao ra dẫn xe tăng. Đứa nào cãi, tao rút chốt lựu đạn US cho chết luôn cả ba ở đây!

Tôi gai người trước những lời lẽ quyết liệt của Thời. Đầu óc sách vở của tôi còn kịp hiểu rằng Thời là một hiệp sĩ mà chúng tôi phải chịu ơn suốt đời. Vũ rơm rớm nước mắt:

- Anh Thời ơi, anh cầm nốt chỗ bông băng cá nhân của em...

Rồi Vũ run rẩy móc túi ngực ra mấy viên tăng lực ấn vào miệng Thời, nói vội: “Anh ăn đi để lấy sức”...

Tôi ôm lấy Thời, âm thầm gạt nước mắt. Những sợi râu xuyên qua áo lính, mơn man trên da thịt tôi buồn buồn, nao nao. Mắt tôi nhoè nhoẹt, cay xót. Thời buông tôi. Đôi mắt hắn đỏ ngầu, nhưng không phải màu đỏ của cơn đói ngủ hôm nào. Hình như hắn cũng khóc? Theo cách của hắn. Những mao mạch trong mắt hắn vỡ ra thành nước mắt. Hắn cất giọng khàn khàn, là lạ:

- Vĩnh biệt!

Thời phốc lên và mất hút trong biển cát bụi mịt mù. Tôi căng mắt dõi theo bóng Thời. Không thấy gì cả. Chỉ có khói lửa cuồn cuộn. Một cảnh tượng tan hoang, hỗn độn. Có cái gì đang sụt lở ầm ầm trong tâm tưởng? Lòng đầy mặc cảm, tôi muốn được hét lên gọi tên Thời. Hắn thế đấy! Dám sống thật với con người thật của mình. Đùa bỡn với tất cả!

Tôi mệt mỏi ngồi thụt xuống hố và lại bồn chồn đứng bật dậy. Vũ nhìn tôi, đôi mắt đỏ hoe, thẫn thờ. Cái hố cát nơi chúng tôi đang đứng chợt như rộng ta, toang hoác, trống trải lạ lùng - Ước gì nó rộng nữa, rộng mãi và tan biến thành biển cả hay sa mạc.

Mặt đất bỗng rung lên cùng với những tiếng động lạ. Xe tăng! Tiếng ai đó reo lên. Tôi và Vũ cùng dán mắt vào cánh rừng cao su. Đúng là xe tăng rồi!

Bốn chiếc xe tăng T34 từ trong rừng cao su lừ lừ bò ra. Xe tăng ta vừa hành tiến vừa nã đạn yểm trợ cho bộ binh mở cửa. Chúng tôi nhìn rõ Thời ngồi chễm trệ trên chiếc xe tăng đi đầu.

Bàng hoàng vì sự xuất hiện đột ngột của bốn chiếc xe tăng, súng địch chợt im bặt khoảng mấy giây đồng hồ. Nhưng, ngay lập tức, quân địch điên cuồng giáng trả. Một cơn mưa đạn cấp tập ác liệt trùm lên bốn chiếc xe tăng. Mặt đất chao đảo. Không gian như bị nung nóng hàng ngàn độ trong cuộc đọ sức của sắt và lửa. Tưởng như tất cả sẽ hóa lỏng trong chớp mắt.

Bỗng, một quầng lửa màu da cam bùng lên, phủ kín chiếc xe tăng đi đầu. Một tiếng nổ long óc... Chiếc xe tăng bốc cháy đùng đùng. Con mãnh thú bị tử thương còn kịp gửi lời chào vĩnh biệt bằng mấy phát đạn cuối cùng. Không có chiến sĩ nào bật nắp tháo pháo nhảy ra! Bi tráng thay là cái chết của những người lính xe tăng. Họ tự đến, tự đi, tự bắn chào vĩnh biệt và tự mai táng cho mình! Mắt tôi hoa lên, chập chờn... Lửa vàng rừng rực... khói đen cuồn cuộn... Tiếng nổ âm u, văng vẳng... Mười ngón tay vô tri của tôi chới với bấu vào bờ cát đang sụt lở... Thời ơi!
Tôi cũng không nhớ nổi, sau cái chết của Thời cùng năm chiến sĩ xe tăng, tôi và Vũ đã xông lên như thế nào và vì sao tôi còn may mắn sống sót?

Tôi còn sống? Sống ngơ ngác giữa bãi chiến trường ngổn ngang bao nhiêu đồng đội đời đời im lặng! Tại sao kẻ may lạ là tôi? Nếu tất cả những kẻ hay do dự và sĩ diện hão như tôi đều sống sót cả thì cuộc đời mới vô duyên làm sao? Ờ, tại sao kẻ thù lại bắn tồi đến thế? Tôi cũng xông lên, cũng phơi mình lù lù trên bãi trống kia mà! Sao tôi không dính một viên đạn? Ôi, Thời, mày thiêng lắm! Bom đạn tránh người mà! Nhưng mày đâu biết nó tránh những ai?

Chiến tranh đến trời long đất lở và ra đi lặng ngắt như thế này ư? Tôi lẳng lặng bước đi như một kẻ mộng du. Tôi lẩm bẩm gọi tên từng người đang yên nghỉ theo những tư thế rất khác nhau. Vũ đây! Chàng trai vùng biển chất phác vô tư, chỉ nghe nói đến chuyện người ta hôn nhau đã thẹn thùng ngượng nghịu. Tôi quỳ xuống vuốt mắt cho Vũ và cúi đầu vĩnh biệt. Nước mắt tôi ứa ra, ròng ròng. Bên má tôi còn ấm nóng hơi thở của Vũ đêm nào, gần đây lắm, chỉ vài chục tiếng đồng hồ thôi... Bây giờ... Tôi nấc lên nghẹn ngào và lảo đảo đứng dậy. Tôi vừa loạng chạng bước thấp bước cao vừa lảm nhảm gọi tên đồng đội. Bình này, Ngọ này, Hảo này, Lân này, Hùng này, Phong này, Khương này... Bỗng tôi khựng lại. Thắng! Chú liên lạc đại đội nằm ngửa, giang rộng hai tay hai chân, đôi mắt mở to nhìn bầu trời cao xanh vòi vọi. Tôi ngồi xụp xuống, vuốt mắt cho Thắng nhưng vô ích. Thi thể người lính trẻ đã lạnh ngắt, cứng đờ. Chẳng lẽ Thời luôn luôn đúng? Đôi mắt trong veo của Thắng chưa kịp hiểu gì hết! Cả cuộc đời và cả chiến tranh. Thế mà lồng ngực bên trái của Thắng đã hứng trọn một loạt đại liên bắn vỗ mặt?

Tôi cúi đầu im lặng. Không gian cũng im ắng lạ thường. Chỉ có giò ù ù bên tai. Bầu trời quang đãng bao la. Và con người sao mà bé bỏng? Và tôi ngậm ngùi hiểu ra rằng, khi buông vũ khí, tôi mới là kẻ đáng thương đến chừng nào?

Bất giác, tôi vồ lấy khẩu AK, lên đạn và chĩa thẳng nòng súng lên trời. Tôi nghiến răng bóp cò. Có tiếng ai đó quát to. Mặc! Tôi quẳng cái hộp đạn rỗng và lắp tiếp một băng khác. Lại lên đạn và xiết cò. Ai đó bóp mạnh vào vai tôi, quát:

- Điên hả? Không được bắn nữa!

Tôi mắm môi, miết cứng vòng cò. Một tiếng “đoàng” lẻ loi, khô khốc. Hết đạn. Đó là viên đạn cuối cùng trong đời lính của tôi. Tôi thẫn thờ buông thõng khẩu súng. Tôi bỗng thèm được nghe tiếng gầm của hàng ngàn khẩu trọng pháo. Thiếu vắng những âm thanh đó, tâm hồn tôi như hụt hẫng?

Chính trị viên phó Huấn đứng trước mặt tôi. Nom anh hốc hác, nhợt nhạt. Anh buồn rầu, nói:

- Không tìm thấy xác Thời, ông ạ!

Tôi giật nẩy người:

- Sao? Mất xác à?

Huấn gật đầu và lầm lũi bước đi. Tôi chạy như bay tới chỗ chiếc xe tăng bị bắn cháy đen thui. Không còn dấu vết gì của Thời, kể cả một vệt máu cháy đen.!

Chúng tôi dàn hàng ngang tìm kiếm. Mười phút. Hai mươi phút. Rồi ba mươi phút. Bất chợt, tôi dừng lại trước một đám kiến đen lổm ngổm, xúm xít. Tôi vội ngồi xuống, dán mắt vào cát. Không có gì cả. Đàn kiến đang kiếm ăn trên một vũng máu tím bầm đầy cỏ rác và bụi bặm. Tôi thất vọng đứng dậy đảo mắt nhìn đám kiến đen đang tầng tầng lớp lớp bu quanh một miếng mồi. Một miếng mồi tua tủa râu đen.

Tôi qùy đầu gối xuống cát, chống hai tay, chổng mông, phồng má lấy hơi thổi đám kiến đen đang lăn xả vào phần thi thể của Thời. Vô ích! Chúng cứ ỳ ra không chịu buông tha miếng mồi. Và hình như chúng còn cố tình trêu ngươi tôi? Chúng chúi đầu rúc sâu vào các chân râu, ngoáy chân, một cách ngạo mạn. Mắt tôi long lên nhức nhối. Những con kiến đen to dần, to dần đến khủng khiếp. Những sợi râu của chúng oằn oại như những cái vì bạch tuộc. Những chiếc răng của chúng nhọn hoắt như răng cá mập. Người tôi chợt đờ ra, lạnh toát. Một nỗi sợ hãi xen lẫn sự kinh tởm dâng lên khiến tôi nghẹt thở và buồn nôn. Kiến đen, những con vật nhỏ bé hiền lành vụt trở thành những tên đồ tể khổng lồ say máu một cách điên dại. Chúng đang gặm sồn sột khiến tôi đau đớn và bất lực. Nhưng, chính vào cái thời khắc yếu đuối một cách quái gỡ ấy, hàng ria vểnh lên ngạo nghễ của Thời đã hối thúc tôi hành động. Tôi dùng bàn tay phải cướp lại mảnh thi thể của Thời. Những con kiến đen túa ra trên mu bàn tay và các kẽ ngón tay của tôi. Chúng tràn cả lên trên phía cổ tay. Tôi điên tiết dùng bàn tay trái miết mạnh giết từng con cho đến khi không còn một mống kiến đen nào trên tay tôi nữa. Giá có một nắm rơm hoặc một can xăng, tôi sẽ phóng hỏa thiêu sạch lũ kiến nhung nhúc trên mặt đất. Tôi dùng hai đế dép đúc chà đi xát lại đám kiến đàn chạy trốn náo loạn. Tôi biết là không thể nào tận diệt được những sinh vật nhỏ bé này bởi vì chúng có mặt ở khắp các hang cùng ngõ hẻm. Và bởi vì tạo hóa sinh ra chúng cũng như đã sinh ra con người vậy. Mọi tính toán nhằm tận diệt lẫn nhau đều có kết cục đáng buồn. Tôi thốt rùng mình như bị lên con sốt rét ác tính...

... Trong cơn mơ chập chờn mộng mị, tôi nghe văng vẳng một lời ai đó rất mơ hồ: “Không khéo tay này bị bệnh thiếu máu não cũng nên!”.

No comments:

Post a Comment

Cảm ơn các bạn đã ghé thăm website. Rất vui nếu các bạn thường xuyên truy cập, chia sẻ và comment. Cảm ơn các bạn nhiều!